Thứ Ba, 7 tháng 7, 2015

Tu cái miệng chính là tu hơn nửa đời người

Nghiệp chính là hành động tạo tác nhiều lần và có chủ ý, của Thân, Miệng và Ý, là nguyên nhân đưa tới quả báo, luật nhân quả tuần hoàn không dứt, đưa con người luân hồi khắp sáu cõi.

Nếu gieo nghiệp thiện thì sẽ sanh ở cõi Trời, Người, Atula, còn nếu tạo nghiệp ác thì sẽ bị đọa vào Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh. Trong đó phần Miệng là gieo tạo nghiệp nhiều nhất. Nhưng đối với đạo Phật tu là chuyển được nghiệp.

Cố kinh vân: “phù sĩ xử thế, phủ tại khẩu trung, sở dĩ trạm thân, do kỳ ác ngôn”. nghĩa là, xét người ở đời, búa để trong miệng, sở dĩ giết người, do lời nói ác.

Tu cái miệng chính là tu hơn nửa đời người
Cổ nhân cũng có dạy: “Bệnh tùng khẩu nhập, hoạ tùng khẩu xuất” nghĩa là: bệnh từ cái miệng do ăn uống mà đem vào, họa cũng từ cái miệng do nói chuyện thị phi mà tạo ra. Phật dạy trong mười cái nghiệp của con người, thì trong đó cái miệng đã chiếm bốn gần một nửa:

1. Chuyện không nói có, chuyện có nói không
2. Nói lời hung ác
3. Nói lưởi đôi chiều
4. Nói lời thêu dệt.

Trong cuộc sống hằng ngày ngoài bốn điều trên, cái miệng còn tạo thêm nhiều nghiệp nữa như:

5. Ăn uống cầu kỳ,
6. Phê bình, khen chê,
7. Rêu rao lỗi của mọi người, (tứ chúng) toàn là những điều tổn phước và theo luật nhân quả tội phải đoạ vào địa ngục, cũng như làm mích lòng, gây mâu thuẩn, hận thù giết hại lẫn nhau mà thôi.

Do vậy kinh Phật cũng dạy, trong sinh hoạt hằng ngày có bốn hạng người chúng ta nên tránh:

1. Hay nói lỗi kẻ khác
2. Hay nói chuyện mê tín, tà kiến
3. Miệng tốt, bụng xấu (khẩu Phật, tâm xà)
4. Làm ít kể nhiều.

Từ cái miệng mà ta có thể biết tâm ý và đánh giá được người khác, để có cách ứng xữ thích nghi.

Của cải dù to lớn như núi, nhưng cái miệng ăn lâu ngày cũng hết. Phước đức dù cực khổ gieo tạo nhiều đời, nhưng do cái miệng tạo nghiệp, phê bình, chỉ trích, nói lời ác… thì trong giây phút cũng có thể tiêu tan. Làm ơn hay bị măc oán, cũng do cái miệng nầy hay kể công, mắng nhiếc, nói sỉ nhục người.

Thần khẩu nó hại xác phàm
Người nào nói quá họa làm khổ thân
Lỡ chân gượng được đỡ lên
Lỡ miệng gây họa phải đền trả thôi.

Cái miệng nầy rất tai hại, ăn uống thì cầu kỳ muốn nuốt vào những món ngon vật lạ cho khoái khẩu, vừa hao tốn tiền của, vừa đem bệnh vào thân, vì động thực vật bây giờ sản xuất chạy theo lợi nhuận nên xử dụng hóa chất rất nhiều, nếu không biết kiêng cữ thì bệnh nan y mang vào thân, để tự làm khổ mình và làm khổ bao người, phải lo chạy chữa, là chuyện đương nhiên.

Người xưa cũng có dạy:

Khẩu khai thần khí tán
Thiệt động thị phi sanh.

Tức là mở miệng nhiều lời sẽ hao tỗn thần khí, lưỡi động thường nói chuyện phải trái, hơn thua, đẹp xấu, khen chê…để rồi phải tranh đấu, mạ lị lẫn nhau khiến sanh ra lắm chuyện thương tâm. Đấy là chỉ nói sơ qua những điều tai hại thường xảy ra hằng ngày của cái miệng, còn lại suốt trong một đời người, do thoả thích cho cái miệng mà chúng ta đã tạo không biết bao tội lỗi.

Do vậy mà Tây phương cũng có dạy: Trước khi nói phải uống lưỡi bảy lần, là vậy.

Cũng có kệ rằng:

Trăm năm vật đổi sao dời. Một câu quý giá muôn đời còn ghi
Mở lời trước phải xét suy. Rằng ta cất tiếng ích chi chăng là.

Lại có thơ:

Lời nói đổi trắng thay đen
Thiên đàng, điạ ngục bon chen lối vào
Trực ngôn tâm chẳng lao xao
Giữ tâm thiền định biết bao an lành.

Cái miệng cũng có nhiều cái lợi: dùng để ăn uống tốt, nuôi dưỡng cơ thể, dùng để nói năng giao tiếp trong hằng ngày, tạo mối thâm tình, giao hảo hài hòa, thông hiểu lẫn nhau, dùng để thuyết giảng, tụng niệm, dạy học, truyền kiến thức và những điều lợi ích đến được nhiều người.

Đọc câu chuyện trong quốc văn giáo khoa thư sau đây sẽ thấy được sự lợi hại về cái miệng, lưỡi: “Một hôm ông phú hộ ra lệnh cho người làm giết heo và chọn phần quí nhất của con heo làm cho ông một món ăn. Người làm vâng lời và sau đó dâng cho ông một món ăn mà phần quí nhất là cái lưỡi heo. Ông phú hộ hỏi tại sao thì người làm trả lời rằng cái lưỡi là bộ phận quí nhất, vì nhờ cái lưỡi mà con người có thể diễn đạt những tình cảm chân thành, những ý tưởng cao siêu, ích nước lợi dân và có ích cho nhân loại.

Ít lâu sau, ông phú hộ lại ra lệnh cho người làm giết heo và chọn một bộ phận xấu xa nhất làm cho ông một món ăn. Người làm vâng lời và sau đó dâng cho ông phú hộ một dĩa đồ ăn mà bộ phận xấu xa nhất lại cũng là cái lưỡi heo.

Ông phú hộ hỏi tại sao, người làm bèn trả lời rằng vì cái lưỡi có thể nói lên những lời nói xấu xa nhất tàn ác nhất làm tan nát gia đình xã hội và có thể khuynh đảo nước nhà ngay cả làm hại cho nhân loại. Ông phú hộ vô cùng ngợi khen sự thông minh của người làm”.

Thật là cái lưỡi không xương nhiều đường lắc léo. Người xưa cũng có nói “nhứt ngôn khả dĩ hưng bang, nhứt ngôn khả dĩ tán bang” nghĩa là một lời nói có thể xây dựng nước nhà, mà cũng có thể làm tan nát nước nhà.

Lược sơ qua những điều lợi hại, thì chúng ta đã thầy cái miệng, lưỡi của người thế gian điều hại sẽ nhiều hơn điều lợi rồi, Tạo hóa sinh ra con người có hai lỗ tai, nhưng chỉ có một cái miệng, cho nên phải nghe nhiều hơn nói, mới đúng với tự nhiên, được thân người là khó, có đầy đủ lục căn và miệng lưỡi trọn vẹn là phước đức quá rồi, hãy nhân vốn phước báu nầy mà gieo trồng thêm phước đức ra nữa, thì mới là người khôn, bởi vậy phải lo Tu cái miệng là điều cần thiết nhất và xem như Tu hơn nửa đời người rồi.

Hoà Thượng Thích Thiện Hoà dạy:

Người khôn nói ít nghe nhiều
Lựa lời đối đáp, lựa điều hỏi han
Trước người hiểu rõ khôn ngoan
Nhường trên một bước rộng đường dể đi
Việc người chớ nói làm chi
Chuyện mình mình biết, vậy thì mới khôn.

Người đời cũng có câu:

Chim khôn hát tiếng rảnh rang
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe
Nghe rồi tỏ ngộ Bồ đề
Khuyên người niệm Phật đồng về Tây phương.

Thượng Toạ Chân Tín cũng có thơ:

Bớt đi lời nói thị phi
Bớt đi tội lỗi sân si đau buồn
Thêm câu niệm Phật nhiều hơn
Phước điền thêm lớn tâm hồn thêm vui.

Bồ Tát Giác Minh Diệu Hạnh có dạy: Ít nói một câu chuyện, niệm nhiều một câu Phật, đánh chết được vọng niệm, pháp thân ta hiện tiền.

Trong kinh Pháp Cú Phật có dạy: Dầu nói ngàn ngàn lời, Nhưng không gì lợi ích, tốt hơn một câu nghĩa, nghe xong được tịnh lạc.

Hay: Không phải vì nói nhiều, mới xứng danh bậc trí, an ổn không oán sợ, thật đáng gọi bậc trí. Không phải vì nói nhiều, là thọ trì chánh pháp, người nghe ít diệu pháp, nhưng trực nhận viên dung, chánh pháp không buông lung, là thọ trì Phật Pháp.

Phật cũng có dạy: Làm thinh như chánh pháp, nói năng như chánh pháp.

Là như vậy. Là Phật tử, một lời nói ra phải giúp cho nhiều người thông hiểu, an lạc, lợi ích thì chúng ta không tiếc lời, phước đức cũng rất vô biên, nhưng rất phải cẫn ngôn, cẫn ngữ khi phải nói ra những lời khiến người khác phải khổ đau, thiệt hại, thì chúng ta sẽ phải gặt hái những điều tương ưng.

Tạo Phước đức cả một đời, nhưng chỉ cần một lời ác khẩu nói ra là tiêu tan trong giây phút. Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. Nhất là chúng ta muốn tu hành được tinh tấn và thành tựu thì phải tránh những chuyện thị phi, vì thị phi mất rất nhiều thời gian một cách vô ích, mà lại gây tạo rất nhiều nghiệp khẩu, oan trái.

Xin luôn nhớ cho rằng:

Trăm năm bia đá thì mòn
Ngàn năm bia miệng vẫn con trơ trơ
Ai ơi! ít nói là vàng
Nói nhiều tội lỗi trái ngang cũng nhiều.

Chi bằng ít nói bao nhiêu
Khỏi điều phiền não, khỏi điều thị phi
Hằng ngày tam nghiệp vô vi
Không tranh nhân quả có gì đảo điên.

Không nghiệp chướng chẳng lụy phiền
Vô ưu, vô não nương thuyền tiêu dao.

Lợi hại như vậy đấy, nên mỗi chúng hãy mau lo tu cái miệng vậy. Trong cuộc sống hằng ngày chúng ta thường đối đãi với nhau, cái miệng phải luôn mĩm cười, nhạy lời xin lỗi và trọng lời cảm ơn. Phải tương kính, dùng ái ngữ, không tiếc lời khen, tán dương, ca tụng, truyền rao những người tốt, việc tốt, những điều hay, lẽ phải để nhân những điển hình tốt đẹp ra thêm làm tô thắm cuộc đời.

Nhưng rất dè dặt tiếng chê, nên ăn chay để bảo vệ môi trường và cứu tinh cầu, không nói dối, mà phải nói những lời chân thật, không dối gạt, ta sẽ nhận được nhiều uy thế, tiếng tăm. Không nói lời thêu dệt, mà nói những lời trung thực, sẽ được nhiều người kính mến. Không nói lời đâm thọc, mà nói lời hoà hợp sẽ được nhiều người ủng hộ. Không nói lời thô ác, mà nói toàn những lời hòa nhã, thương yêu, sẽ có cuộc sống cao sang.

Đấy là những pháp tu cho cái miệng, rất hay, rất bổ ích, chúng ta cần thực hiện theo, để gặt hái được nhiều phước đức, lúc đó cuộc đời, gia đình và xã hội, trong hiện tại được thanh bình, an đẹp và tương lai sẽ sanh vào nơi an lạc, thật hạnh phúc nào bằng.

Nghiệp miệng chuyên tạo điều lành
Sống thời an lạc, tái sanh cõi hiền
Viên Thành, những ngày tịnh dưỡng.

Thơ về nghiệp khẩu

Kinh dạy cái miệng tội lỗi vô cùng
Nghiệp khẩu có bốn, nói chung rất nhiều
Lời thời hung ác, lưỡi lại đôi chiều
Chuyện không nói có, có thời nói không.

Nhiều lời thêu dệt, lắm chuyện viễn vông
Đâm bì thóc nọ thọc bì gạo kia
Khiến cho bao kẻ chịu cảnh chia lià
Nát tan nhà cửa gia đình thảm thương.
Lại thêm rao lỗi tứ chúng bốn phương

Truớc mặt khen nịnh sau lưng chê cười
Thương thay người lại biến thành đười ươi
Để cho đánh mất tình người trong ta
Cái miệng ăn uống rất đỗi xa hoa.

Giết bao loài vật để mà nuôi thân
Nhậu nhẹt say khướt như kẻ ngu đần
Thân mình phá hoại bệnh tình phải mang
Ung thư đột quỵ bệnh gút rõ ràng.

Nhà hàng ăn uống cầu kỳ nhẫn tâm
Quan điểm hưởng thụ tạo mọi lỗi lầm
Cũng từ cái miệng ăn càng nói xiên
Hoạ tai lại đến lắm chuyện não phiền.

Lỡ lời một tiếng hận thù ngàn năm
Lòng ta trong sáng tợ ánh trăng rằm
Chiếu soi nhân thế tỏ đường quy y
Khiêm cung đối đãi tôn trọng lễ nghi.

Nhạy lời xin lỗi trọng lời cảm ơn
Nhân văn đẹp tuyệt còn có nào hơn
Tán dương ca tụng trọng người hơn ta
Miệng cười tươi đẹp thanh thoát như hoa
Thành người cao qúy trên đời tôn vinh.

Khẩu nghiệp không tốt nay biến thành xinh
Ăn sạch nói đẹp thanh bình hoan ca.

Thứ Năm, 2 tháng 7, 2015

Nghi thức Cầu An - Tụng Kinh Phổ Môn

Cùng tìm hiểu về hệ thống kinh phat cũng như nghi thức Cầu An (nghi thức này tụng kinh Phổ Môn)

Thêm chú thích
NGHI THỨC CẦU AN (Tụng kinh Phổ Môn)

I. NIỆM HƯƠNG

(Thắp đèn đốt hương trầm xong, đứng ngay ngắn chắp tay để ngang ngực mật niệm)

II. TỊNH PHÁP-GIỚI CHƠN-NGÔN

Án lam xóa ha. (3 lần)

III. TỊNH TAM-NGHIỆP CHƠN-NGÔN

Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ truật độ hám. (3 lần)

(Chủ lễ thắp ba cây hương quỳ ngay thẳng cầm hương ngang trán niệm bài cúng hương)

IV. CÚNG HƯƠNG TÁN PHẬT

Nguyện thử diệu hương vân,

Biến mãn thập phương giới,

Cúng dường nhứt-thế Phật,

Tôn pháp chư Bồ-tát,

Vô biên Thanh-Văn chúng,

Cập nhứt-thế Thánh-Hiền,

Duyên khởi quang minh đài,

Xứng tánh tác Phật-sự,

Phổ huân chư chúng-sanh,

Giai phát Bồ-đề tâm,

Viễn-ly chư vọng-nghiệp,

Viên-thành vô-thượng đạo.

(Xá 3 xá rồi đọc bài kỳ nguyện)

V. KỲ NGUYỆN

Tư thời đệ-tử chúng đẳng phúng tụng kinh chú, xưng tán hồng-danh, tập thử công-đức, nguyện thập-phương thường-trú Tam-bảo, Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, Ðại-bi hội thượng Phật Bồ-tát, từ-bi gia-hộ Phật-tử..... pháp-danh..... phiền-não đoạn-diệt, nghiệp-chướng tiêu trừ, thường hoạch kiết tường, vĩnh ly khổ ách. Phổ nguyện: âm siêu dương thới, hải yến hà thanh, pháp-giới chúng-sanh, tề thành Phật đạo.

VI. TÁN PHẬT

Pháp vương vô-thượng tôn

Tam-giới vô luân thất

Thiên nhơn chi Ðạo-sư

Tứ-sanh chi từ-phụ

Ư nhứt niệm quy-y

Năng diệt tam-kỳ nghiệp

Xưng dương nhược tán-thán

Ức kiếp mạc năng tận.

(Ðứng dậy cấm hướng lên lư rồi chắp tay đứng thẳng và niệm lớn)

VII. QUÁN TƯỞNG

Năng lễ, sở lễ tánh không tịch,

Cảm ứng đạo-giao nan tư nghì,

Ngã thử đạo tràng như Ðế-châu,

Thập phương chư Phật ảnh hiện trung,

Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,

Ðầu diện tiếp túc quy mạng lễ.

- Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Tận hư-không, biến pháp-giới, quá, hiện, vị-lai thập-phương chư Phật, Tôn-Pháp, Hiền-Thánh Tăng, Thường-trú Tam-Bảo. (1 lạy)

- Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Ta-bà Giáo-chủ Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, Ðương-lai hạ sanh Di-Lặc Tôn Phật, Ðại-trí Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát, Ðại-hạnh Phổ-Hiền Bồ-tát, Hộ-Pháp Chư-tôn Bồ-tát, Linh-sơn hội thượng Phật Bồ-tát. (1 lạy)

- Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới Ðại-từ Ðại-bi A-Di-Ðà Phật, Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát, Ðại-Thế-Chí Bồ-tát, Ðại-nguyện Ðịa-Tạng-Vương Bồ-tát, Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát. (1 lạy)

(Ðứng ngay, vô chuông mõ và đồng tụng):

VIII. TÁN LƯ-HƯƠNG

Lư hương sạ nhiệt,

Pháp giới mông huân,

Chư Phật hải hội tất diêu văn,

Tùy xứ kiết tường vân,

Thành ý phương ân,

Chư Phật hiện toàn thân.

Nam-mô Hương-Vân-Cái Bồ-tát ma-ha-tát. (3 lần)

IX. CHÚ ÐẠI-BI

Nam-mô Ðại-bi Hội-thượng Phật Bồ-Tát. (3 lần)

Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại-bi tâm đà-la-ni.

Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da.

Nam-mô a rị da, bà lô yết đế, thước bát ra da, Bồ-đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da, án, tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tỏa.

Nam-mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà.

Nam-mô na ra cẩn trì hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ-đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na a ra sâm Phật ra xá-lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ-đề dạ bồ-đề dạ, bồ-đà dạ, bồ-đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha.

Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da.

Nam-mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàng ra dạ, ta bà ha.

Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. (3 lần)

Nam-mô Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật. (3 lần)

X. KHAI KINH KỆ

Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp,

Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ,

Ngã kim kiến văn đắc thọ trì,

Nguyện giải Như-Lai chơn thiệt nghĩa.


XI. PHẨM PHỔ-MÔN

Nam mô Pháp Hoa hội thượng Phật Bố tát (3 lần)

Diệu Pháp Liên Hoa Kinh


Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm

Nhĩ thời, Vô-tận-ý Bồ-tát tức tùng tọa khởi, thiên đản hữu kiên, hiệp chưởng hướng Phật, nhi tác thị ngôn:

Thế-Tôn, Quán-thế-âm Bồ-tát dĩ hà nhơn duyên danh Quán-thế-âm?

Phật cáo Vô-tận-ý Bồ-tát: Thiện-nam tử, nhược hữu vô- lượng bá thiên vạn ức chúng sanh, thọ chư khổ não, văn thị Quán-thế-âm Bồ-tát nhứt tâm xưng danh, Quán-thế-âm Bồ-tát, tức thời quán kỳ âm thinh giai đắc giải-thoát.

Nhược hữu trì thị Quán-thế-âm Bồ-tát danh giả, thiết nhập đại hỏa, hỏa bất năng thiêu; do thị Bồ-tát, oai thần lực cố. Nhược vị đại thủy sở phiêu, xưng kỳ danh hiệu tức đắc thiển xứ.

Nhược hữu bá thiên vạn ức chúng-sanh, vị cầu: kim ngân, lưu-ly, xa-cừ, mã-não, san-hô, hổ-phách, trân-châu, đẳng bảo, nhập ư đại hải; giả sử hắc phong xuy kỳ thuyền phưởng, phiêu đọa La-sát quỷ quốc, kỳ trung nhược hữu nãi chí nhất nhơn, xưng Quán-thế-âm Bồ-tát danh giả, thị chư nhơn đẳng giai đắc giải-thoát La-sát chi nạn. Dĩ thị nhân duyên, danh Quán-thế-âm.

Nhược phục hữu nhơn, lâm đương bị hại, xưng Quán-thế-âm Bồ-tát danh giả, bỉ sở chấp đao trượng, tầm đoạn đoạn hoại, nhi đắc giải-thoát.

Nhược tam-thiên đại-thiên quốc độ, mãn trung Da-xoa, La-sát, dục lai não nhơn, văn kỳ xưng Quán-thế-âm Bồ-tát danh giả, thị chư ác quỷ, thượng bất năng dĩ ác nhãn thị chi, huống phục gia hại.

Thiết phục hữu nhơn, nhược hữu tội, nhược vô tội, nữu giới già tỏa, kiểm hệ kỳ thân, xưng Quán-thế-âm Bồ-tát danh giả, giai tất đoạn hoại tức đắc giải thoát.

Nhược tam-thiên đại-thiên quốc độ, mãn trung oán tặc, hữu nhứt thương chủ, tương chư thương nhơn, tê trì trọng bảo kinh quá hiểm lộ, kỳ trung nhứt nhơn, tác thị xướng ngôn: "Chư thiện-nam tử, vật đắc khủng bố, nhữ đẳng ưng đương nhứt tâm xưng Quán-thế-âm Bồ-tát danh hiệu; thị Bồ-tát năng dĩ vô-úy thí ư chúng-sanh; nhữ đẳng nhược xưng danh giả, ư thử oán tặc, đương đắc giải-thoát". Chúng thương nhơn văn, câu phát thinh ngôn: "Nam-mô Quán-thế-âm Bồ-tát" xưng kỳ danh cố, tức đắc giải-thoát.

Vô-tận-ý! Quán-thế-âm Bồ-tát ma-ha-tát, oai thần chi lực, nguy nguy như thị.

Nhược hữu chúng-sanh đa ư dâm dục, thường niệm cung kính Quán-thế-âm Bồ-tát tiện đắc ly dục; nhược đa sân nhuế, thường niệm cung kính Quán-thế-âm Bồ-tát, tiện đắc ly sân; nhược đa ngu si, thường niệm cung kính Quán-thế-âm Bồ-tát tiện đắc ly si.

Vô-tận-ý! Quán-thế-âm Bồ-tát, hữu như thị đẳng đại oai thần lực, đa sở nhiêu ích. Thị cố chúng-sanh, thường ưng, tâm niệm.

Nhược hữu nữ nhơn, thiết dục cầu nam, lễ bái cúng dường Quán-thế-âm Bồ-tát, tiện sanh phước đức trí-huệ chi nam; thiết dục cầu nữ, tiện sanh đoan chánh hữu tướng chi nữ, túc thực đức bổn, chúng nhơn ái kính.

Vô-tận-ý! Quán-thế-âm Bồ-tát hữu như thị lực, nhược hữu chúng-sanh, cung kính lễ bái Quán-thế-âm Bồ-tát, phước bất đường quyên, thị cố chúng-sanh, giai ưng thọ trì Quán-thế-âm Bồ-tát danh hiệu.

Vô-tận-ý! Nhược hữu nhơn thọ trì lục thập nhị ức hằng-hà sa Bồ-tát danh tự, phục tận hình cúng-dường ẩm thực, y-phục, ngọa-cụ, y-dược, ư nhữ ý vân hà? Thị thiện-nam tử, thiện-nữ nhơn công-đức đa phủ?

Vô-tận-ý ngôn: "Thậm đa, Thế-Tôn". Phật ngôn: "Nhược phục hữu nhơn, thọ trì Quán-thế-âm Bồ-tát danh hiệu, nãi chí nhất thời lễ bái, cúng-dường, thị nhị nhơn phước, chánh đẳng vô dị! ư bá thiên vạn ức kiếp, bất khả cùng tận. Vô-tận-ý, thọ trì Quán-thế-âm Bồ-tát danh hiệu, đắc như thị vô lượng vô biên phước đức chi lợi".

Vô-tận-ý Bồ-tát bạch Phật ngôn: Thế-Tôn, Quán-thế-âm Bồ-tát, vân hà du thử Ta-bà thế giới? Vân-hà nhi vị chúng-sanh thuyết-pháp ? Phương-tiện chi lực, kỳ sự vân hà?

Phật cáo Vô-tận-ý Bồ-tát: "Thiện-nam tử, nhược hữu quốc độ chúng-sanh, ưng dĩ Phật thân đắc độ giả, Quán-thế-âm Bồ-tát tức hiện Phật thân nhi vị thuyết-pháp; ưng dĩ Bích-Chi-Phật thân đắc độ giả, tức hiện Bích-Chi-Phật thân nhi vị thuyết-pháp; ưng dĩ Thinh-văn thân đắc độ giả, tức hiện Thinh-văn thân nhi vị thuyết-pháp; ưng dĩ Phạm Vương thân đắc độ giả, tức hiện Phạm-Vương thân nhi vị thuyết-pháp; ưng dĩ Ðế-Thích thân đắc độ giả, tức hiện Ðế-Thích thân, nhi vị thuyết-pháp; ưng dĩ Tự-tại Thiên thân đắc độ giả, tức hiện Tự-tại Thiên thân nhi vị thuyết-pháp; ưng dĩ Ðại Tự-tại Thiên thân đắc độ giả, tức hiện Ðại Tự-tại Thiên thân nhi vị thuyết-pháp; ưng dĩ Thiên đại-tướng-quân thân đắc độ giả, tức hiện Thiên đại-tướng-quân thân nhi vị thuyết pháp; ưng dĩ Tỳ-Sa-Môn thân đắc độ giả, tức hiện Tỳ-Sa-Môn thân nhi vị thuyết-pháp; ưng dĩ Tiểu-Vương thân đắc độ giả, tức hiện Tiểu-Vương thân nhi vị thuyết-pháp; ưng dĩ Trưởng-giả thân đắc độ giả, tức hiện Trưởng-giả thân nhi vị thuyết-pháp; ưng dĩ Cư-sĩ thân đắc độ giả, tức hiện Cư-sĩ thân nhi vị thuyết-pháp; ưng dĩ Tể-quan thân đắc độ giả, tức hiện Tể-quan thân, nhi vị thuyết-pháp; ưng dĩ Bà-la-môn thân đắc độ giả, tức hiện Bà-la-môn thân nhi vị thuyết pháp; ưng dĩ Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di thân đắc độ giả, tức hiện Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di thân nhi vị thuyết-pháp; ưng dĩ Trưởng-giả, Cư-sĩ, Tể-quan, Bà-la-môn, Phụ nữ thân đắc độ giả, tức hiện Phụ-nữ thân nhi vị thuyết-pháp; ưng dĩ Ðồng-nam, Ðồng-nữ thân đắc độ giả, tức hiện Ðồng-nam, Ðồng-nữ thân nhi vị thuyết-pháp; ưng dĩ Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhơn, Phi nhơn đẳng thân đắc độ giả tức giai hiện chi nhi vị thuyết-pháp; ưng dĩ Chấp-kim-cang thần đắc độ giả, tức hiện Chấp-kim-cang thần nhi vị thuyết-pháp.

Vô-tận-ý! Thị Quán-thế-âm Bồ-tát thành tựu như thị công-đức dĩ chủng chủng hình, du chư quốc độ, độ thoát chúng-sanh, thị cố nhữ đẳng, ưng đương nhứt tâm cúng-dường Quán-thế-âm Bồ-tát. Thị Quán-thế-âm Bồ-tát ma-ha-tát, ư bố úy cấp nạn chi trung, năng thí vô-úy; thị cố thử Ta-bà thế-giới, giai hiệu chi vi thí vô-úy giả.

Vô-tận-ý Bồ-tát bạch Phật ngôn:

"Thế-Tôn! Ngã kim đương cúng-dường Quán-thế-âm Bồ-tát ". Tức giải cảnh chúng bảo châu anh-lạc, giá trị bá thiên lượng kim, nhi dĩ dữ chi, tác thị ngôn: "Nhơn giả thọ thử pháp thí, trân bảo anh-lạc". Thời Quán-thế-âm Bồ-tát bất khẳng thọ chi. Vô-tận-ý phục bạch Quán-thế-âm Bồ-tát ngôn: "Nhơn giả mẫn ngã đẳng cố, thọ thử anh-lạc". Nhĩ thời Phật cáo Quán-thế-âm Bồ-tát: "Ðương mẫn thử Vô-tận-ý Bồ-tát cập tứ-chúng: Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhơn, Phi-nhơn đẳng cố, thọ thử anh-lạc". Tức thời Quán-thế-âm Bồ-tát, mẫn chư tứ chúng, cập ư Thiên, Long, Nhơn, Phi-Nhơn đẳng, thọ kỳ anh-lạc, phân tác nhị phần: Nhất phần phụng Thích-Ca Mâu-Ni Phật, nhất phần phụng Ða-bảo Phật tháp.

Vô-tận-ý, Quán-thế-âm Bồ-tát hữu như thị tự-tại thần lực du ư Ta-bà thế-giới.

Nhĩ thời Vô-tận-ý Bồ-tát dĩ kệ vấn viết:

Thế-Tôn diệu tướng cụ

Ngã kim trùng vấn bỉ

Phật-tử hà nhân duyên

Danh vi Quán-thế-âm?

Cụ túc diệu tướng tôn

Kệ đáp Vô-tận-ý:

Nhữ thính Quán-âm hạnh

Thiện ứng chư phương sở

Hoằng thệ thâm như hải

Lịch kiếp bất tư nghị

Thị đa thiên ức Phật

Phát đại thanh-tịnh nguyện

Ngã vị nhữ lược thuyết

Văn danh cập kiến thân

Tâm niệm bất không quá

Năng diệt chư hữu khổ,

Giả sử hưng hại ý

Thôi lạc đại hỏa khanh

Niệm bỉ Quán-âm lực

Hỏa khanh biến thành trì.

Hoặc phiêu lưu cự hải

Long ngư chư quỷ nạn

Niệm bỉ Quán-âm lực

Ba lãng bất năng một.

Hoặc tại Tu-di phong

Vi nhơn sở thôi đọa

Niệm bỉ Quán-âm lực

Như nhật hư không trụ

Hoặc bị ác nhơn trục

Ðọa lạc Kim-cang sơn

Niệm bỉ Quán-âm lực

Bất năng tổn nhứt mao.

Hoặc trị oán tặc nhiễu

Các chấp đao gia hại

Niệm bỉ Quán-âm lực

Hàm tức khởi từ tâm

Hoặc tao vương nạn khổ

Lâm hình dục thọ chung

Niệm bỉ Quán-âm lực

Ðao tầm đoạn đoạn hoại

Hoặc tù cấm già tỏa

Thủ túc bị nữu giới

Niệm bỉ Quán-âm lực

Thích nhiên đắc giải-thoát,

Chú trớ chư độc dược

Sở dục hại thân giả

Niệm bỉ Quán-âm lực

Hoàn trước ư bổn nhơn.

Hoặc ngộ ác La-sát

Ðộc long chư quỷ đẳng

Niệm bỉ Quán-âm lực

Thời tất bất cảm hại.

Nhược ác thú vi nhiễu

Lợi nha trảo khả bố

Niệm bỉ Quán-âm lực

Tật tẩu vô biên phương.

Ngoan xà cập phúc yết

Khí độc yên hỏa nhiên

Niệm bỉ Quán-âm lực

Tầm thinh tự hồi khứ.

Vân lôi cổ xiết điện

Giáng bạc chú đại võ

Niệm bỉ Quán-âm lực

Ứng thời đắc tiêu tán.

Chúng-sanh bỉ khổn ách

Vô lượng khổ bức thân

Quán-âm diệu trí lực

Năng cứu thế-gian khổ.

Cụ túc thần-thông lực

Quảng tu trí phương-tiện

Thập phương chư quốc-độ

Vô sát bất hiện thân.

Chủng chủng chư ác-thú

Ðịa-ngục quỷ, súc-sanh

Sanh, lão, bệnh, tử, khổ

Dĩ tiệm tất linh diệt.

Chơn quán thanh tịnh quán.

Quảng đại Trí-huệ quán

Bi quán cập Từ quán

Thường nguyện thường chiêm ngưỡng.

Vô cấu thanh-tịnh quang

Huệ nhật phá chư ám

Năng phục tai phong hỏa

Phổ minh chiếu thế-gian.

Bi thể giới lôi chấn

Từ ý diệu đại vân

Chú cam-lồ pháp võ

Diệt trừ phiền-não diệm

Tránh tụng kinh quan xứ

Bố úy quân trận trung

Niệm bỉ Quán-âm lực

Chúng oán tất thối tán.

Diệu âm Quán-thế-âm

Phạm-âm hải-triều âm

Thắng bỉ thế-gian âm

Thị cố tu thường niệm

Niệm niệm vật sanh nghi.

Quán-thế-âm tịnh thánh

Ư khổ não tử ách

Năng vị tác y hỗ.

Cụ nhứt thế công-đức

Từ nhãn thị chúng-sanh

Phước tụ hải vô lượng

Thị cố ưng đảnh lễ

Nhĩ thời Trì-Ðịa Bồ-tát, tức tùng tòa khởi, tiền bạch Phật ngôn: "Thế-Tôn, nhược hữu chúng-sanh văn thị Quán-thế-âm Bồ-tát phẩm, tự-tại chi nghiệp, phổ môn thị hiện, thần thông lực giả; đương tri thị nhơn công-đức bất thiểu".

Phật thuyết thị Phổ-môn phẩm thời, chúng trung bát vạn tứ thiên chúng-sanh, giai phát vô đẳng đẳng A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề tâm.

XII. DIỆU-PHÁP LIÊN-HOA KINH QUÁN-THẾ-AÂM BỒ-TÁT PHỔ-MÔN PHẨM CHƠN-NGÔN VIẾT

Án, đa rị đa rị, đốt đa rị, đốt đốt đa rị, ta bà ha. (3 lần)

XIII. LỤC TỰ ÐẠI MINH CHƠN-NGÔN

Án, ma ni bát di hồng. (108 lần)


XIV. PHỔ MÔN TÁN


Phổ môn thị hiện

Cứu khổ tầm thinh

Từ bi thuyết-pháp độ mê tân

Phó cảm ứng tùy hình

Tứ hải thanh ninh

Bát nạn vĩnh vô xâm

XV. THẬP NHỊ NGUYỆN

1. Nam-mô hiệu Viên-thông danh Tự-tại, Quán-Âm Như-Lai, quảng phát hoằng thệ nguyện. (1 lạy)

2. Nam-mô nhứt niệm tâm vô quái ngại, Quán-Âm Như-Lai thường cư Nam-hải nguyện. (1 lạy)

3. Nam-mô trụ Ta-bà, U-minh giới, Quán-Âm Như-Lai tầm thinh cứu khổ nguyện. (1 lạy)

4. Nam-mô hàng tà-ma trừ yêu-quái, Quán-Âm Như-Lai, năng trừ nguy-hiểm nguyện. (1 lạy)

5. Nam-mô thanh-tịnh bình thùy dương-liễu, Quán-Âm Như-Lai cam-lộ sái tâm nguyện. (1 lạy)

6. Nam-mô đại từ-bi, năng hỷ-xả, Quán-Âm Như-Lai, thường hành bình đẳng nguyện. (1 lạy)

7. Nam-mô trú dạ tuần vô tổn hoại, Quán-Âm Như-Lai thệ diệt tam-đồ nguyện. (1 lạy)

8. Nam-mô vọng nam-nham, cần lễ bái, Quán-Âm Như-Lai, già tỏa giải-thoát nguyện. (1 lạy)

9. Nam-mô tạo pháp thuyền du khổ hải, Quán-Âm Như-Lai độ tận chúng-sanh nguyện. (1 lạy)

10. Nam-mô tiền tràng phan, hậu bảo-cái, Quán-Âm Như-Lai tiếp dẫn Tây-Phương nguyện. (1 lạy)

11. Nam-mô Vô-lượng-thọ Phật cảnh giới, Quán-Âm Như-Lai, Di-Ðà thọ ký nguyện. (1 lạy)

12. Nam-mô đoan nghiêm thân vô tỉ tái, Quán-Âm Như-Lai, quả tu thập nhị nguyện. (1 lạy)

XVI. TÁN PHẬT

A-Di-Ðà Phật thân kim sắc,

Tướng hảo quang-minh vô đẳng-luân,

Bạch hào uyển-chuyển ngũ tu-di,

Cám mục trừng thanh tứ đại hải,

Quang trung hóa Phật vô số ức,

Hóa Bồ-tát chúng diệc vô-biên,

Tứ thập bát nguyện độ chúng-sanh,

Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.

Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới, đại-từ đại-bi, A-Di-Ðà Phật.

Nam-mô A-Di-Ðà Phật. (Niệm nhiều ít tùy ý)

Nam-mô Ðại-bi Quán-thế-âm Bồ-tát. (3 lần)

Nam-mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát. (3 lần)

Nam-mô Ðại-Tạng Vương Bồ-tát. (3 lần)

Nam-mô Thanh-tịnh Ðại-Hải chúng Bồ-tát. (3 lần)

XVII. MA-HA BÁT-NHÃ BA-LA MẬT-ÐA TÂM-KINH

Quán-tự-tại Bồ-tát, hành thâm Bát-nhã Ba-la mật-đa thời, chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.

Xá-Lợi-Tử ! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị.

Xá-Lợi-Tử ! Thị chư Pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung, vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới, vô vô-minh diệc, vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão-tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc.

Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề tát-đỏa y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố, tâm vô quái-ngại; vô quái-ngại cố, vô hữu khủng-bố, viễn ly điên-đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn. Tam-thế chư Phật, y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.

Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thị đại-thần chú, thị đại minh chú, thị vô-thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.

Cố thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa chú, tức thuyết chú viết:

Yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát bà ha. (3 lần)

XVIII. TIÊU TAI CÁT TƯỜNG THẦN CHÚ

Nẳng mồ tam mãn đa, mẫu đà nẩm. Á bát ra để, hạ đa xá ta nẳng nẩm. Ðát điệt tha. Án, khê khê, khê hế, khê hế, hồng hồng, nhập phạ ra, nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, để sắc sá, để sắc sá, sắc trí rị, sắc trí rị, ta phấn tra, ta phấn tra, phiến để ca thất rị duệ, ta phạ ha. (3 lần)

XIX. PHỤC NGUYỆN

Nam Mô Thập Phương Thường Trú Tam Bảo tác đại chứng minh.

Nam Mô Ðại Từ Ðại Bi linh cảm ứng Quán Thế AÂm Bồ Tát tác đại chứng minh.

Phục nguyện:

Thượng lai hiện tiền đệ tử chúng đẳng chí thành trì tụng Ðại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Phổ Môn Phẩm, nguyện hồi hướng công đức kỳ an hiện tiền Phật tử... Chư tai tiêu diệt, nghiệp chướng tiêu trừ, thường hoạch cát tường, viễn ly khổ ách.

Phổ nguyện:

Âm siêu dương thới, Pháp giới chúng sanh, tình dữ vô tình tề thành Phật Ðạo.

Ðồng niệm: Nam Mô A Di Ðà Phật.

XX. TAM QUY-Y

Tự quy-y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại-đạo, phát vô-thượng tâm. (1 lạy)

Tự quy-y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh-tạng, trí huệ như hải. (1 lạy)

Tự quy-y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống-lý đại-chúng, nhứt thiết vô ngại. (1 lạy)

XXI. HỒI HƯỚNG

Cầu-An công-đức thù thắng hạnh,

Vô biên thắng phước giai hồi-hướng,

Phổ nguyện pháp-giới chư chúng-sanh,

Tốc vãng vô-lượng-quang Phật sát.

Nguyện tiêu tam-chướng trừ phiền-não,

Nguyện đắc trí-huệ chơn minh liễu,

Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ.

Thế thế thường hành Bồ-tát đạo.

Nguyện sanh Tây-phương Tịnh-độ trung,

Cửu phẩm Liên-hoa vi phụ mẫu,

Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh,

Bất thối Bồ-tát vi bạn lữ.

Nguyện dĩ thử công-đức,

Phổ cập ư nhứt thiết,

Ngã đẳng dữ chúng-sanh,

Giai cộng thành Phật-đạo.