Thứ Ba, 9 tháng 6, 2015

Cuộc đời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (P.2)

Cuộc đời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni - Từ lúc Thành Đạo tới nhập Niết Bàn

1 - Đức Phật Thích Ca mâu Ni hành Đạo

Sau khi thành Đạo, Đức Phật Thích Ca mâu Ni quán khắp Vũ trụ, Ngài thấy có vô lượng thế giới, quán chúng sinh Ngài biết mỗi chúng sanh đều có Phật tính (tánh), vì Ngài nói rằng chúng sinh ngụp lặn trong si mê tối tăm nên phải trầm luân trong biển sinh tử luân hồi không có ngày ra khỏi. Ngài quán và biết rằng con người hiểu được giáo lý nếu Ngài nói ra, và có người kham nhận được sự tu hành. Do đó, đức Phật quyết định sẽ giáo hóa chúng sinh cho dù có khó khăn như thế nào đi nữa. Ngài cũng phải làm nhiệm vụ của bậc Phật như tất cả chư Phật trong Vũ trụ đã làm, đang làm và sẽ làm để dẫn dắt chúng sanh ra khỏi khổ đau và được giải thoát. Sự hoằng pháp của Đức Phật Thích Ca mâu Ni trên ba nguyên tắc:

- Hành Đạo theo thứ lớp

- Tùy phương tiện

- Theo tinh thần bình đẳng

2 - Đức Phật Thích Ca mâu Ni hành Đạo hàng ngày

Chương trình mỗi ngày của Đức Phật Thích Ca mâu Ni thật khít khao không có kẽ hở, xem ngay từ5 giờ sáng ra khỏi phòng thất, làm vệ sinh tắm rửa, xong ngồi quán sát, hoặc đi kinh hành xong quán sát thế gian xem có ai (kể cả các đệ tử ở khắp các nơi) cần độ trong nhân gian, Ngài dùng thần thông đến liền. Tới 9 giờ sáng thuyết pháp cho chúng Tăng. Từ 10 hoặc 11 giờ đi khất thực, đi thụtrai nếu có người thỉnh. Sau khi thọ trai về, Ngài nằm nghiêng bên phải định thần một lúc, tới 1 giờchiều, Ngài nhập Đại Bi Định quán sát thế gian. Từ 2 hoặc 3 giờ chiều thuyết pháp cho thiện nam tín nữ, Ngài dùng Phật nhãn để nhìn vào tâm tính mỗi người mà tùy căn cơ hóa độ. Từ 7 giờ tối Ngài giảng và giải thích thắc mắc cho đệ tử đề tài thiền, tới 9 giờ tối, Ngài ngồi quán sát thế gian, có khi đi kinh hành xong ngồi nhập Đại Định. Từ 11 giờ đêm đến 4 giờ sáng, Ngài nhập Đại Định, rải tâm Từkhắp chúng sinh. Nhiều đêm các vị Trời từ các tầng Trời thường hay đến chiêm bái và học giáo lý của đức Phật. Tất cả các buổi tham bái ấy đều xảy ra vào từ nửa đêm đến khoảng bốn giờ sáng. Như có lần Vua Trời Đạo Lợi, cũng gọi là Đế Thiên Thích, mà người đời gọi là Ngọc Hoàng Thượng Đế đến tham bái đức Phật trong lúc Ngài đang nhập Định lửa tam muội trong động Nhẫn Đà Bà Là khiến cả vùng núi Tỳ Đà đỏ rực một màu lửa. Như vậy về đêm Ngài thường nhập Đại Định và quán sát thế gian, vũ trụ, hoặc tiếp dạy các vị Trời. Từ 4 giờ sáng Ngài nằm nghiêng bên phải định thần đến 5 giờ sáng.

Mỗi năm Đức Phật Thích Ca mâu Ni đi hành đạo giáo hóa suốt chín tháng không mưa, còn ba tháng mưa, Ngài an cư tại một đạo tràng trong nước Ấn Độ, gọi là “An cư kiết hạ”.

Suốt 45 năm, dấu chân Đức Phật Thích Ca mâu Ni và các đệ tử của Ngài khắp xứ Ấn Độ, ở đâu Ngài và đệ tử cũng được đón nhận chào mừng; từ hàng vua quan đến dân giả, từ người già cả đến các trai trẻ, từ nam tới nữ, từ người giàu đến kẻ nghèo, đều tắm gội trong ánh sáng trí tuệ và gió mát từ bi do Ngài ban rải khắp cùng. Nơi nào có mặt Ngài và đệ tử Ngài, là nơi đó tà giáo, ngoại đạo lui xa, tan biến như bóng tối, sương mai trước ánh mặt trời hiện.


3 - Các thời Đức Phật Thích Ca mâu Ni nói Kinh

Sự nói Kinh được các Phật tử sau này chia ra làm năm thời như sau:

- Thời thứ nhất: Đức Phật Thích Ca mâu Ni nói Kinh Hoa Nghiêm, khi mới thành đạo. Ngài nói Kinh này để vạch chân tánh, chỉ rõ chỗ cao siêu nhiệm mầu của Đạo Phật

- Thời thứ hai: Đức Phật Thích Ca mâu Ni nói Kinh A Hàm, thời kỳ này dài 12 năm đầu để dạy về tựtu, tự độ cho mình.

- Thời thứ ba: Đức Phật Thích Ca mâu Ni dạy Kinh Phương Đẳng, thời này dài 8 năm kế. Đức Phật nói: “Đã tự độ rồi, còn phải độ tha”, tức là độ mình và độ cho người, trình độ các đệ tử cao hơn một bậc.

- Thời thứ tư: Đức Phật Thích Ca mâu Ni nói Kinh Bát Nhã, thời này kéo dài 17 năm; tới thời này, trình độ dạy giáo thuyết cao hơn nữa, tiến tới giáo thuyết chân không, vũ trụ, thật tướng, vô tướng của các pháp.

- Thời thứ năm: Đức Phật Thích Ca mâu Ni nói Kinh Pháp Hoa, Niết Bàn, thời kỳ này dài 8 năm; khiấy các đệ tử Phật đã thuần thục, có thể gánh vác việc đạo, nên Ngài giảng việc thị hiện vì bản nguyện “Khai thị chúng sinh nhập tri kiến Phật”. Ngài thụ ký cho 1250 đệ tử sẽ thành Phật tùy căn cơ mỗi người mà thọ ký mau hay lâu, và việc thuyết pháp độ sinh của Đức Phật đã đầy đủ viên mãn.


4 - Đức Phật Thích Ca mâu Ni nhập Niết Bàn

- Đức Phật Thích Ca mâu Ni tuyên bố nhập Niết Bàn trước ba tháng: Việc độ chúng sanh đã viên mãn, Ngài chứng tỏ cho mọi người: “Xác thân vô thường”, vì xác thân do bốn đại: “đất, nước, gió, lửa” tạo thành trở về với bốn đại, cũng như chiếc xe lâu ngày phải cũ hư. Đó là lý vô thường đương nhiên phải như thế, cái còn lại là giáo lý chân thật, bất hư mà đức Phật đã giảng dạy trong suốt 45 năm; giáo lý chân thật đầy đủ cho mọi người theo đó học hỏi hành trì để đạt được chân lý giải thoát khỏi luân hồi sinh tử.

- Đức Phật Thích Ca mâu Ni nói Kinh Di Giáo: Ngài dặn Tôn giả A Nan là Thị giả của Ngài rằng: “Sau khi Ta Nhập Niết Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi, thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với giáo pháp nào khác. Hãy nương tựa nơi chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác”, Ngài nói tiếp: “Ái ân là vô thường, nếu có xum hợp, phải có chia lià; nhất là thân này không phải ta, mạng sống không tồn tại mãi mãi được”.

- Đức Phật Thích Ca mâu Ni nhập Niết Bàn: Ngài nhập Niết Bàn tại rừng Ta La nước Câu Thi La giữa hai cây Long Thọ vào nửa đêm ngày mồng 8 tháng hai âm lịch, năm 543 trước Dương lịch. Sau đó được dân chúng Mạt La thành Câu Thi cùng các đệ tử Phật cúng dàng thân Phật, rồi trà tỳ (thiêu) và chia Xá Lợi Phật cho 8 (tám) nước rước về xây tháp để mọi người chiêm bái, cúng dường.

Nguồn: 
http://lichvansu.wap.vn/tag/kinh-phat.html

Cuộc đời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (P.1)


Cuộc đời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni - Từ Đản Sanh tới lúc Thành Đạo

1 - Đức Phật  Đản Sanh

Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ. Nay thuộc nước Tích Lan (Nepal) ở gần chân núi Hi Mã Lạp Sơn (Himalaya) cách thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu) khoảng 15 cây số (gần 10 dặm Anh). Hoàng hậu Ma Da (Maha Maya) của Vua Tịnh Phạn (Suddhodana) thuộc qúy tộc Thích Ca (Sakya) họ Cù Đàm (Gotama) hạ sinh một Hoàng tử.

Cuộc đời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
Sau khi sinh được bảy ngày, Hoàng hậu băng hà, sinh lên cõi trời Đâu Suất, Vua Tịnh Phạn giao Hoàng Tử cho em gái ruột của Hoàng hậu là Ma Ha Bà Xà Ba Đề (Mahã Pajãpati), kế mẫu nuôi dưỡng chăm sóc.

Tin Hoàng tử chào đời được loan truyền trong nhân gian, thần dân vui mừng, Vua mời một số đạo sĩ đến để xem boi, các đạo sĩ đều nói Hoàng tử có 32 tướng tốt, trên đời chưa thấy ai có; nếu sau này làm vua sẽ là một Hoàng Đế nhân đức anh minh, còn nếu xuất gia học đạo sẽ là bậc đại Thánh, một đại vĩ nhân. Vì vậy Vua đặt tên là Sĩ Đạt Ta (Siddhartha) có nghĩa là toại nguyện, Vua cũng phong cho Sĩ Đạt Ta là con trưởng sẽ nối ngôi vua sau này, nên gọi là Thái tử Sĩ Đạt Ta.

2 - Tuổi niên thiếu của Đức Phật

Thái tử mỗi năm mỗi lớn, diện mạo càng thêm khôi ngô tuấn tú, tài năng phát triển vượt bực, Thái tửcó một sức khoẻ cường tráng, một trí óc thông minh xuất chúng, từ văn đến võ, các trai tráng trong hoàng tộc không ai sánh kịp, học thầy nào cũng chỉ trong một thời gian ngắn là học hết quyền thuật chữ nghĩa của thầy. Mặc dù tài sức hơn người, nhưng Thái tử không bao giờ tỏ ra kiêu ngạo khinh người, trái lại có một thái độ nhã nhặn, thương người thương vật, vô tư bình đẳng, do đó Thái tửđược Vua cha thương yêu qúy mến chiều chuộng; những người chung quanh mến trọng nể vì.

3 - Đức Phật trong Lễ Hạ Điền

Một hôm, nhân ngày lễ Hạ Điền (lễ bắt đầu làm ruộng của nhà nông trong một năm) vào ngày đầu xuân, Thái tử theo Vua cha ra đồng. Mọi người vui vẻ với buổi lễ trong cảnh gió xuân nắng ấm hoa lá tốt tươi, muôn chim hót vang trong cảnh êm đẹp thái bình; trong khi mọi người mải vui với buổi lễnhư thế, Thái tử ngồi một mình bắt chéo hai chân như người ngồi thiền dưới bóng cây. Thái tử nghĩ rằng những cảnh đẹp, chứ thực ra không phải thế, như trâu bò khổ cực kéo cày, người nông dân phải làm việc cực khổ, chân lấm tay bùn để có cơm ăn áo mặc. Thái tử ngồi một mình suy nghĩ trầm tư như thế rồi vào định tâm...

4 - Thành hôn của Đức Phật

Thấm thoắt Thái tử đã 16 tuổi, các việc học hành tập luyện đều chu toàn đầy đủ, có vóc dáng của người hai chục tuổi, lại khôi ngô tuấn tú. Vua Tịnh Phạn muốn con mình sẽ nối ngôi sau này nên xem tuoi vo chong và ép Thái tử thành hôn với Công chúa Da Du Đà La (Yasodhara) đẹp đẽ nết na chu toàn cùng tuổi. Vua cho lập cung điện bốn mùa thay đổi, chọn các mỹ nữ trẻ đẹp hầu hạ Thái tử; chung quanh cung điện là ao hồ, vườn cây luôn đẹp đẽ xanh tươi, hoa lá rực rỡ như cảnh thần tiên. Đời sống vương giả thật đầy đủ, cao lương mỹ vị, đàn ca múa hát, ngày đêm có người luân phiên chầu chực hầu hạ, lên xe xuống ngựa trong hoàng thành rộng lớn.

Cuộc đời nhung lụa sung sướng với vợ đẹp hiền ngoan như thế đã trên mười năm, mọi người tưởng rằng Thái tử sẽ tiếp tục sống mãi như thế tới ngày Vua cha truyền ngôi để trì vì đất nước. Rồi Công Chúa sinh con trai tên La Hầu La, Vua Tịnh Phạn càng thêm vui mừng, vì có thêm sự ràng buộc Thái tử hơn nữa. Mặc dù sống đời sung sướng, vợ đẹp, con ngoan, Thái tử vẫn thấy trong lòng nặng trĩu nỗi băn khoăn thắc mắc đời sống thật sự bên ngoài hoàng thành.

5 - Đức Phật đã nhận rõ cảnh khổ

Một hôm, Thái tử xin Vua cha cho người hướng dẫn đi dạo ra ngoài cửa thành ngắm cảnh, ra đến cửa Đông, Ngài thấy một ông già đầu bạc trắng, lưng còng, răng rụng, lần bước đi một cách khó khăn; đến cửa Nam, Ngài thấy một người nằm co quắp trên cỏ đang kêu la đau đớn, hỏi thăm được biết người này đang bị bệnh; đến cửa Tây, Ngài thấy một người chết nằm bên đường. Thấy ba cảnh tang thương ấy, Thái tử nhận rõ bộ mặt thật của cuộc đời là khổ, những cảnh xa hoa trong hoàng cung chỉ là giả dối; Ngài muốn tìm cách giải quyết làm sao để cứu chúng sanh khỏi khổ đau, bệnh, chết, nhưng Ngài chưa biết phải làm gì, nên trong lòng Ngài nặng nề hơn.

Mấy ngày sau, Thái tử lại xin đi dạo chơi, lần này ra cửa Bắc, Ngài thấy một người ngồi kết già dưới gốc cây, thản nhiên không để ý các người qua lại; thấy vậy, Ngài có một sự cảm mến với vị ấy, và hé nảy sinh con đường cứu bệnh khổ già chết trong tâm tư, Ngài liền trở về cung thưa với Vua cha xin xuất gia học đạo, nhưng bị từ khước. Thái tử trình Vua bốn sự việc nếu Vua giải quyết được, Ngài sẽ bỏ việc học đạo, đó là:

1 - Làm sao mọi người trẻ mãi không già,

2 - Làm sao mọi người khỏe mãi không bệnh,

3 - Làm sao mọi người sống mãi không chết,

4 - Làm sao mọi người hết khổ.

Vua nghe Ngài hỏi như thế, buồn rầu không giải quyết được, và nói: “Những việc đó là thường ở đời, đương nhiên phải già, bệnh, khổ, chết, không có cách nào giải quyết được, đành chịu mà thôi”.

6 - Đức Phật xuất gia tìm đạo

Lúc này, Vua lại tìm đủ cách để giữ chân Thái tử, nhưng từ khi thấy bốn cảnh ở bốn cửa thành, Ngài đã tìm ra được giải đáp: “Ở đời là khổ, tất cả chỉ là tạm bợ, ngay cả cái thân ta mai này cũng sẽ vào cát bụi. Ta phải tìm chân lý để cứu mình và cứu tất cả chúng sinh”. Ngài đã nhất quyết trong lòng con đường tìm chân lý giải thoát. Cung vàng điện ngọc, địa vị giàu sang, vợ đẹp con ngoan, sống sung sướng v.v…. không thể sánh với sự giải thoát to lớn và cứu độ chúng sanh khỏi khổ đau.

Ngài đã xem ngay và trong một đêm khuya, mọi người đương giấc ngủ say sưa, Thái tử Sĩ Đạt Ta nhìn vợ con đang an giấc, rồi cùng với người giữ ngựa lặng lẽ rời khỏi hoàng thành trong đêm tối. Lúc đó Ngài 29 tuổi, tuổi tráng niên cường lực, dứt bỏ hết để ra đi tìm đạo với hai bàn tay trắng, đểsống một cuộc đời chưa biết sẽ ra sao.

Sáng hôm sau, khi đã vượt qua sông Anoma (Neranjara), Ngài dừng chân trên bãi cát, dùng thanh kiếm sắc bén tự cạo râu tóc xong trao áo mão (mũ) kiếm cho người giữ ngựa đem trở về trình Vua; Ngài khoác vào mình tấm vải vàng cam làm áo, tự nguyện sống đời tu sĩ, và chấp nhận mọi sựthiếu thốn vật chất. Từ một người sống trong nhung lụa giàu sang quyền qúy, bỗng nhiên trở thành người đi lang thang trong nóng nực, lạnh lẽo, như người bất định trong sương gió. Đầu đội trời, chận đạp đất, không giày dép mũ nón, chỉ một mảnh vải che thân, không nhà không cửa. Đạo sĩ Cù Đàm lấy bóng cây hang đá là nhà để tránh nắng che mưa, trú dông bão tố, mang bát đi khất thực để sống v.v…

Ngài tìm đến học đạo với đạo sĩ Alarama Kalama, Ngài học và hành, đạt những gì đạo sĩ ấy đạt; Đạo sĩ Alarama Kalama mời Ngài cộng tác dạy đám đệ tử, nhưng Ngài từ chối vì không thỏa mãn những gì đã đạt được. Đạo sĩ Cù Đàm rời vị ấy tìm đến một vị thứ hai, đạo sĩ Uddaka Ramaputta, Ngài học và cũng chứng những gì vị ấy chứng; vị thứ hai nhường cho đạo sĩ Cù Đàm làm đạo sưhướng dẫn các đạo sĩ ở đó, nhưng sự chứng không giải quyết được những điều mà Ngài mong muốn, chưa phải là chân lý, chưa phải là Niết Bàn tối thượng, do đó Ngài lại ra đi.


7 - Đức Phật tu Khổ Hạnh 

Đạo sĩ Cù Đàm đi đến vùng ngoại thành Vương Xá nước Ma Kiệt tự tu tập một mình, lúc ấy có đạo sĩ Kiều Trần Như là người trẻ nhất trong số đạo sĩ được Vua Tịnh Phạn mời xưa kia khi mới sinh Hoàng tử Sĩ Đạt Ta. Ông nghe tin Thái tử đã xuất gia học đạo, nên dẫn bốn người đồng tu tìm đến gặp Ngài để cùng tu.

Thời bấy giờ, nhiều người có quan niệm: “Chỉ có tu khổ hạnh mới giải thoát được”, nên ông Kiều Trần Như đã thuyết phục Ngài nhập chung với năm người cùng tu khổ hạnh. Do đó đạo sĩ Cù Đàm đã khép mình để cùng tu trong thời gian dài trên năm năm khổ hạnh.

Từ một thân hình cường tráng khỏe mạnh dần dần cho đến một thân hình chỉ còn da bọc xương, dùng vô số phương tiện của khổ hạnh để tu, Ngài chỉ ăn rau cỏ để thiền, nhịn thở để thiền, chỉ ăn một vài hạt đậu và một ít nước mỗi ngày để thiền v.v…

Thân hình đạo sĩ Cù Đàm trở nên gầy còm đến nỗi xương bàn tọa ngồi như móng con lừa, xương sống như xâu chuỗi hột, lưng còng xuống, xương sườn phơi ra tựa như sườn nhà bị đổ, hai mắt hõm vào như sao dưới đáy giếng sâu thẳm. Khi sờ da bụng lại đụng xương sống, đi lại té tới ngã lui, Ngài cứ phải đập nhè nhẹ vào thân làm cho tỉnh táo, thì lông từ da không còn sức bám rơi xuống lả tả; nước da trước kia hồng hào tươi mát, lúc đó chỉ còn thấy là màu sạm đen như da người chết!

Mặc dù khổ hành đến cùng cực như thế, mặc dù không ai tinh tấn bằng đạo sĩ Cù Đàm, các đạo sĩ vẫn cho là cần phải tiếp tục khổ hạnh để đạt chân lý; thấy rõ ràng sau khi trải qua thời gian dài khổhạnh như thế, cái chết đã gần kề, đạo qủa chân lý chẳng thấy đâu, trí thức suy giảm, tinh thần mệt mỏi, Ngài quyết định dứt khoát từ bỏ lối tu khổ hạnh. Vì cần có một thân hình khỏe mạnh, một trí óc sáng suốt để suy gẫm đạt chân lý, nên Ngài bắt đầu dùng vật thực thô sơ trở lại.

8 - Đức Phật tu Trung Đạo 

Quyết định từ bỏ lối sống khổ hạnh, nhưng Ngài cũng không quay lại lối sống lợi dưỡng, mà vạch ra đường lối tu Trung đạo, Ngài biết rằng tu bằng đường Trung đạo sẽ tác thành nhẫn, tác thành trí tựtại, tác thành định đưa đến trí, sẽ đưa đến giác ngộ.

Năm vị đạo sĩ đồng tu thấy thế liền chê trách: “Đạo sĩ Cù Đàm không đủ kiên nhẫn”, họ liền bỏ đi; không vì thế mà thối chí ngã lòng, một mình Ngài trong chốn rừng sâu tu tập. 

Bấy giờ, đạo sĩ Cù Đàm nghĩ rằng: “Ta đã đi tìm hết các nơi, không có một ai đủ khả năng dẫn dắt ta thành tựu mục tiêu mà ta mong muốn, vì chưa ai ra khỏi sự vô minh”. Ngài bèn đi đến vùng ngoại thành Vương Xá nước Ma Kiệt tự tu tập một mình, nơi có dòng sông trong mát, cây cối xanh thẳm, hoa lá tốt tươi. Đi đến dưới gốc cây Bồ Đề lấy cỏ làm nệm ngồi thiền định, Ngài thề nguyện rằng: “Nếu không đạt chân lý dù thịt nát xương tan ta cũng không rời khỏi chỗ này”. Ngài đã liên tiếp trải qua nhiều gian nan thử thách về nội tâm tham, sân, si, mạn, nghi v.v…, rồi sau lại phải chiến đấu với ngoại cảnh Thiên ma dùng đủ mọi tà pháp hòng cản trở Ngài việc thiền định; rút cục Ngài chiến thắng cả nội tâm lẫn ngoại cảnh, tâm trí được yên ổn trong thiền định.

Cuộc đời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (P.2)

9 - Đức Phật Thành Đạo:

Trong đêm thứ 49, vào khoảng 10 giờ lúc canh hai, Ngài chứng “Túc mệnh minh”, thấy rõ tất cả các đời qúa khứ một đời, hai đời, ba đời, mười đời, trăm đời, nghìn đời; sinh chỗ này, tên là gì, cuộc sống ra sao, chết sinh vào đâu v.v…, tất cả đều biết hết. Tiếp tục thiền định, tới khoảng nửa đêm lúc canh ba, Ngài chứng “Thiên nhãn minh”, thấy được tất cả bản thể vũ trụ, biết cấu tạo thế giới vũ trụ thành trụ hoại diệt (thành lập, sống còn, tiêu hủy, chết mất) như thế nào, đều biết hết thảy. Vẫn kiên cố hành thiền tam muội (thiền định), đến khoảng 2 giờ sáng lúc canh tư, Ngài chứng “Lậu tận minh”, vô lậu, sạch hết trần cấu (sạch hết ô nhiễm). Biết rõ Khổ, nguồn gốc của đau khổ, cách trừđau khổ, và con đường đạo qủa viên mãn. Ngài tự biết: “Ta đã giải thoát, không còn tái sinh nữa, tu hành viên mãn, việc làm đã xong, không còn trở lại trạng thái khi xưa nữa”.

Ngài từ từ mở mắt to ra chợt thấy sao Mai lấp lánh, hốt nhiên “Toàn Ngộ”, thấu triệt cùng khắp chân lý vũ trụ, thần thông quảng đại, Ngài đạt Đạo Vô Thượng, thành bậc “Chính Đẳng Chính Giác” nên được gọi là bậc Toàn Giác, Như Lai, hiệu Phật Thích Ca Mâu Ni.

Nguồn: 
http://lichvansu.wap.vn/tag/kinh-phat.html