Thứ Bảy, 5 tháng 12, 2015

Xem tử vi tuổi thân chủ nhật ngày 6/12/2015

- Nhâm Thân (Kim, 24 nam Vân Hớn nữ La Hầu): Xem boi tinh yeu thấy chuyện tình cảm chớ nên tính toán chỉ đưa đến sự chia tay, hoặc phiền lòng mà không nói ra. Việc làm không nên thay đổi nên giữ nguyên tình trạng và hành động một cách bình thường. Mong cầu về tiền bạc còn chậm. Hao tốn về tiệc tùng, gặp gỡ, giao thiệp, hò hẹn các việc đáo hạn.

- Canh Thân (Mộc, 36 nam Mộc Đức nữ Thủy Diệu): Ngày có nhiều biến chuyển mạnh về công danh, tài lộc, việc làm cũng như về tình cảm. Cần phải có sự khôn khéo thì mới tránh khỏi chuyện vào nhanh ra nhanh. Theo xem tu vi nên hoàn trả những gì đã nợ ở lúc trước để tránh sự buồn phiền trách oán, hoặc hao tốn về mua sắm, giúp đỡ hoặc phải bị phân chia do điều kiện đã được định trước.

- Mậu Thân (Thổ, 48 nam Thủy Diệu nữ Mộc Đức): Nên ngồi yên khi mọi việc đến với mình ở trong tình thế khó khăn, tiến thoái lưỡng nan. Không nên hấp tấp trong công việc sẽ bị hư hại sai sót, trách oán. Chỉ nên xem xét lại vấn đề từ ngọn ngành. Chớ làm càn. Mọi việc mong cầu về tiền bạc còn chậm, chưa có kết quả. Ngày rất dễ gặp rủi ro, đứng giữa ngã ba đường. Nên chú ý xem ngày để được sinh con theo y muon.

- Bính Thân (Hỏa, 60 nam Vân Hớn nữ La Hầu): Không nên dính líu đến chuyện của người khác chỉ đem đến sự bất lợi hoặc làm ơn mắc oán. Có tin vui hoặc gặp bè bạn, có khách. Có tài lộc, hoặc có tin thuận lợi về việc mình mong cầu. Hao tài cho sự giúp đỡ hoặc giao thiệp.

- Giáp Thân (Thủy, 72 nam Mộc Đức nữ Thủy Diệu): Khi bắt tay vào việc chớ nên chán nản, hoặc trước cần cù mà sau biếng nhác, muốn bỏ ngang không tốt. Nên chụp lấy cơ hội dù có hao sức hoặc có sự hao tốn về tiền bạc, nhưng sẽ có kết quả. Ngày có sự gặp gỡ bè bạn, quý nhân. Có tin tốt đẹp về công danh, tình cảm của mình hoặc của người thân. Không nên tin cậy về lời hẹn ước, có sự sai lệch chút ít. Có tin tức ở xa. Nên đối xử với mọi người một cách công bằng, bình đẳng, sự thiên lệch về một bên sẽ có sự phật lòng ngấm ngầm.

Thứ Sáu, 4 tháng 12, 2015

Tử vi tuổi Tuất thứ Bảy ngày 5/12/2015

- Giáp Tuất (Hỏa, 22 nam Thái Bạch nữ Thái Âm): Xem lich am 2016 thấy rằng cần đề phòng sức khỏe không tốt, hoặc trong gia đạo có nhiều chuyện xảy ra ngoài ý muốn về sức khỏe, bổn mạng của người thân. Nuôi súc vật không tốt, hoặc nên cẩn trọng khi đi đường, sử dụng xe cộ máy móc, té ngã hoặc va chạm có thương tích. Xe cộ máy móc hư hao. Cần nên tự mình quyết định không nên nghe ý kiến của người khác, bất lợi. Nói chung tài lộc thì ít nhưng đây là bước đầu để tạo danh tiếng. Hạp các nghề sửa chữa, điện, công nghệ thông tin, nấu ăn, xây nhà, mai táng, địa ốc, bảo hiểm, ngân hàng, cổ phiếu.

- Nhâm Tuất (Thủy, 34 nam Kế Đô nữ Thái Dương): Theo xem boi hôm nay là ngày hoàn toàn không tốt cho mọi việc. Tất cả đều không nên tiến hành. Hoặc chỉ vì tình nghĩa miễn cưỡng mà phải làm. Gia đạo bất an. Tin tức không tốt, chớ nên tin cẩn, hoặc hy vọng vào người khác, có sự phản bội, nếu không thì cũng nhận tin tức trái ngược với dự tính. Không nên gây gỗ đưa đến bất hòa. Tài lộc vào nhanh, ra nhanh.

- Canh Tuất (Kim, 46 nam La Hầu nữ Kế Đô): Theo tu vi 2016 hôm nay có tin tức về chuyện tình cảm ở nơi xa, hoặc nhà có khách, bè bạn đến theo lời hẹn. Không nên hấp tấp vội vàng quyết định nhanh chóng, kết quả sẽ không tốt. Có tài lộc. Có tin xấu về sức khỏe, công danh của người thân. Cẩn trọng trong việc đi lại, sử dụng xe cộ, máy móc, gặp trở ngại. Chuyện tình cảm chớ nên dây dưa không tốt.   

- Mậu Tuất (Mộc, 58 nam Thái Bạch nữ Thái Âm): Có tài lộc nhưng phải có sự chia chác hoặc giữ số tiền, đồ đạc của người khác. Có sự vất vả trong công việc, hoặc phải lo cho người thân, bè bạn. Nên nhường nhịn, không nên tranh cãi, đôi co, nhưng cũng không nên hứa hẹn, hoặc để người khác ràng buộc mình vì lời nói. Gia đạo có nhiều âu lo, bận rộn, đau ốm, tai nạn hoặc có tang. Hạp nghề pháp luật, y tế, cơ khí, cơ giới, phóng viên.

- Bính Tuất (Thổ, 70 nam Kế Đô nữ Thái Dương): Cần phải nghiêm chỉnh và hết sức cẩn trọng trong mọi việc đến với mình. Có quá nhiều vần đề cần phải giải quyết. Gia đạo rất bận rộn về công ăn, chuyện làm, nhà cửa, sức khỏe. Không nên di chuyển, đi xa. Bình tĩnh khi gặp áp lực từ nơi khác. Tình cảm không tốt. Tài lộc kém, dễ hao tài, dễ gặp chuyện thị phi, phiền toái. Nói chung mọi việc đều không tốt.

Thứ Năm, 3 tháng 12, 2015

Xem tử vi ngày 4/12/2015 cho tuổi Ngọ

- Canh Ngọ (Thổ, 26 nam Thái Âm nữ Thái Bạch): Mọi việc chỉ là ngắn ngủi. Cho nên xem tu vi thấy rằng tiến hành công việc gì thì nên làm cho nhanh. Không nên đính ước, hứa hẹn nhanh chóng dễ có sự thiệt thòi, lỡ bộ. Nên đi xa, hoặc đi gặp người đã có sự ước hẹn tốt hơn là ngồi chờ. Nên bình tĩnh nếu có mọi áp lực, trở ngại, phê bình, dèm pha, tranh cãi, thưa kiện, có tiểu nhân, bất hòa về ý kiến. Có sự gặp gỡ hoặc có tin tức của thân nhân, bè bạn. Có cuộc vui.

- Mậu Ngọ (Hỏa, 38 nam Thổ Tú nữ Vân Hớn): Theo tử vi 12 con giap hôm nay là ngày có sự tu bổ, sửa chữa, dọn dẹp, mua sắm, hoặc có tiệc tùng, dự tiệc. Trừ cũ lập mới. Có tin xa, hoặc có tin về sự thuyên chuyển nhà cửa, văn phòng, công ăn việc làm, sức khỏe có liên quan đến mình , thân nhân, bè bạn. Có sự hoàn trả nợ nần, hoặc phải giải quyết các việc đã có sự hẹn trước. Có cuộc đi ngắn gặp mặt, hội họp gặp gỡ. Tài lộc trung bình.

- Bính Ngọ (Thủy, 50 nam Thái Dương nữ Thổ Tú): Xem boi tinh yeu thấy rằng cuộc hẹn ước sẽ không thành hoặc có sự dời hẹn, chậm trễ, không được như ý muốn. Không nên tin chắc vào sự tính toán, dự tính của mình vì rất dễ có những sự kiện hoặc tin tức mới gây sự cản trở, bỏ dở nhưng vẫn không phải là xấu. Ngày có sự gặp gỡ thân nhân, bè bạn hoặc có tin của họ. Tài lộc trung bình.

- Giáp Ngọ (Kim, 62 nam Thái Âm nữ Thái Bạch): Đề phòng trộm cắp, mắc lừa, bội ước, hoặc có người khác nhúng tay xen vào chuyện của mình. Ngày có nhiều phiền muộn bất mãn, nhưng vẫn có người hiểu mình, chia ngọt sẻ bùi, tài lộc không tốt. Chỉ nên làm việc bình thường. Bôn ba nhiều cũng không có lợi gì. Nên kiên nhẫn chờ thời.

- Nhâm Ngọ (Mộc, 74 nam Thổ Tú nữ Vân Hớn): Nên cẩn thận ngay từ đầu, và làm việc gì cũng nên nhanh chóng vì còn nhiều việc ở phía sau. Chuyện vui chơi, tình cảm, giao thiệp nên dè dặt, không nên đi quá xa. Nên khiêm tốn nếu mình có sự thành công hoặc có lợi. Việc đi lại, di chuyển không đúng theo ý muốn, có sự thay đổi ở dọc đường. Có khách đến.

Thứ Tư, 2 tháng 12, 2015

Xem tử vi tuổi Ngọ ngày 3/12/2015

- Canh Ngọ (Thổ, 26 nam Thái Âm nữ Thái Bạch): Theo tử vi 12 con giap hôm nay là ngày xung của bổn mạng. Bớt một chuyện tốt hơn là thêm một chuyện. Tránh chuyện thị phi tranh cãi, nên nhường nhịn. Sức khỏe không tốt. Có tin buồn. Không nên mưu sự hoặc tiến hành những chuyện lớn lao sẽ bị nghẽn lối, cản trở, gặp khó khăn, chỉ hao tốn công sức. Tài lộc có bao nhiêu thì tốt bấy nhiêu. Nên chi dụng vào những việc cần thiết. Có tin xa, hoặc có sự gặp gỡ.

- Mậu Ngọ (Hỏa, 38 nam Thổ Tú nữ Vân Hớn): Ngày xung của bổn mạng. Nên mạnh dạn nói lên ý nghĩ của mình về công việc cũng như tình cảm khi được hỏi ý kiến. Ngày có sự hội họp, bàn thảo, nhóm bạn, gặp gỡ người thân hoặc có tin tức của họ. Tài lộc tốt. Theo xem tu vi 2016 có tin không tốt về đồ đạc, vật dụng trong nhà hoặc trong công sở cần phải tu bổ, sửa chữa. Sức khỏe không tốt hoặc phải bận lo về công việc. Không nên hấp tấp khi quyết định công việc, nên hỏi ý kiến của quý nhân.

- Bính Ngọ (Thủy, 50 nam Thái Dương nữ Thổ Tú): Ngày xung của bổn mạng. Nên cẩn trọng trong sự đi lại, di chuyển. Có người bất đồng ý kiến với mình. Theo xem chu dai bi nếu có mưu sự về công việc gì thì đều phải có trở ngại trước hoặc có sự thiệt thòi, hy sinh mới có kết quả. Tuy nhiên vẫn có tin tức tốt ở xa hoặc gặp thân nhân, bè bạn đến giúp đỡ, có cuộc vui.

- Giáp Ngọ (Kim, 62 nam Thái Âm nữ Thái Bạch): Ngày xung của bổn mạng. Không nên tiến hành, giao dịch những công việc lớn, sẽ gặp điều không may. Ngày có nhiều biến chuyển không thuận lợi dễ dàng trong việc giải quyết. Giới hạn việc di chuyển đi xa, sử dụng phương tiện máy móc. Ngày chỉ có những tin tức không tốt, hoặc tin tức không đến, chậm chạp. Không nên tranh cãi, bất hòa chỉ làm thêm rối ren, dễ bị hàm oan, thị phi. Tài lộc kém. Tình cảm không tốt. Gia đạo bất an.

- Nhâm Ngọ (Mộc, 74 nam Thổ Tú nữ Vân Hớn): Ngày xung của bổn mạng. Ngày có nhiều sự việc xảy ra tốt xấu xoay chuyển liên tục, nên bình tĩnh để giải quyết. Nên cẩn trọng dễ có sự hư hại, trắc trở, khó khăn nhưng vẫn có kết quả. Có người bất đồng ý kiến với mình. Có sự gặp gỡ người thân, bè bạn hoặc có tin tức. Hao tốn về giao thiệp, giải trí.

Thứ Ba, 22 tháng 9, 2015

Bài Kinh Phước Đức

Cùng tìm hiểu về Kinh Phật - tung chu dai bi cũng như bài kinh: "Kinh Phước Đức".

Bài Kinh Phước Đức 
KINH PHƯỚC ĐỨC

(Thiền sư Thích Nhất Hạnh dịch)

Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya, có một thiên giả hiện xuống thăm Người, hào quang và vẻ đẹp của thiên giả làm sáng cả vườn cây. Sau khi đảnh lễ Đức Thế Tôn, vị thiên giả xin tham vấn Người bằng một bài kệ:

Thiên và nhân thao thức
Muốn biết về phước đức
Để sống đời an lành
Xin Thế Tôn chỉ dạy.

Và sau đây là lời Đức Thế Tôn:

Lánh xa kẻ xấu ác
Được thân cận người hiền
Tôn kính bậc đáng kính
Là phước đức lớn nhất.

Sống trong môi trường tốt
Được tạo tác nhân lành
Được đi trên đường chánh
Là phước đức lớn nhất.

Có học, có nghề hay
Biết hành trì giới luật
Biết nói lời ái ngữ
Là phước đức lớn nhất.

Được cung phụng mẹ cha
Yêu thương gia đình mình
Được hành nghề thích hợp
Là phước đức lớn nhất.

Sống ngay thẳng, bố thí,
Giúp quyến thuộc, thân bằng
Hành xử không tỳ vết
Là phước đức lớn nhất.

Tránh không làm điều ác
Không say sưa nghiện ngập
Tinh cần làm việc lành
Là phước đức lớn nhất.

Biết khiêm cung lễ độ
Tri túc và biết ơn
Không bỏ dịp học đạo
Là phước đức lớn nhất.

Biết kiên trì, phục thiện
Thân cận giới xuất gia
Dự pháp đàm học hỏi
Là phước đức lớn nhất.

Sống tinh cần, tỉnh thức
Học chân lý nhiệm mầu
Thực chứng được Niết-bàn
Là phước đức lớn nhất.

Chung đụng trong nhân gian
Tâm không hề lay chuyển
Phiền não hết, an nhiên,
Là phước đức lớn nhất.

Ai sống được như thế
Đi đâu cũng an toàn
Tới đâu cũng vững mạnh
Phước đức của tự thân.

Thứ Hai, 24 tháng 8, 2015

Đạo Phật - Nghi thức thọ Bát Quan Trai Giới

Cùng tìm hiểu Kinh Phật, chu dai bi cũng như tìm hiểu về nghi thức thọ bát quan trai giới

NGHI THỨC THỌ CÓ GlỚI SƯ TRUYỀN

Ban đầu đến Chùa cầu xin thọ Bát quan trai giới, chỉ bạch qua và trình ngày rảnh việc đã định...

Khi giới sư đã hoan hỷ cho, ra trai đường sẽ lễ cầu bạch rõ.

Phật tử tại gia phát tâm thọ giới Bát quan trai phải đến chùa lễ cầu giới sư, trước nhờ thầy Tri sự hướng dẫn . Khi giới sư mỗi mỗi dặn bảo đủ rồi sẽ đảnh lễ cầu xin truyền giới.

Nghi thức thọ Bát Quan Trai Giới
I. THỈNH GIỚI SƯ RA TRAI ĐƯỜNG

Thầy Tri sự đánh khánh, bảo một giới tử hiểu biết ra đứng giữa đại bạch, còn bao nhiêu đứng hai bên.

BẠCH: Nam mô A Di Đà Phật.

Bạch Đại đức, chúng con có duyên sự đầu thành đảnh lễ xin tác bạch (lễ 1 lễ rồi quỳ bạch).

Nam mô A Di Đà Phật (2 lần).

Bạch Đại đức, chúng con tên là: ... vì gia duyên còn bận buộc, chưa xuất gia được, nay chúng con y theo lời Phật dạy, nguyện tập tu Bát quan trai giới, xin thành tâm đảnh lễ cần cầu Đại đức thùy từ lân mẫn truyền trao giới pháp cho chúng con được ân triêm công đức.

Giới sư có thể truyền cho, đáp rằng:

A Di Đà Phật. "Được! Như vậy tốt lắm!”

Muốn nói rộng thì: Các vị còn gia duyên bận buộc chưa thể xuất gia được, nay nguyện tu Bát quan trai giới, đến thành tâm lễ cầu thầy truyền trao trai giới, Đại đức Tăng rất hoan hỷ hứa khả. Vậy các vị lễ Tổ chứng minh cho.

Giới tử bạch: A Di Đà Phật, trên Đại đức Tăng đã từ bi hứa khả cho rồi, chúng con xin đầu thành đảnh lễ cúng dường (lễ 3 lễ).

II. THỈNH GIỚI SƯ TỀ NGHỆ TỒ ĐƯỜNG

Thầy Tri sự xướng lễ: Nhứt tâm đảnh lễ Tây thiên, Đông độ, Việt Nam lịch đại chư vị Tổ sư tam bái (lễ rồi đứng một bên).

III. THỈNH GIỚI TỬ TỰU BAN

Đến rồi xướng rằng: Nhứt tâm đảnh lễ Tây thiên, Đông độ, Việt Nam lịch đại chư vị Tồ sư tam bái.

IV. THỈNH GIỚI SƯ TỀ NGHỆ PHẬT TIỀN

Niệm hương cầu Phật, Bồ tát gia bị. Thầy Tri sự xướng:

- Nhứt tâm đảnh lễ: Nam mô Tận hư không biến pháp giới, quá hiện vị lai, thập phương chư Phật, tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng thường trụ Tam bảo, nhứt bái.

- Nhứt tâm đảnh lễ: Nam mô Ta bà Giáo chủ Điều ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Long hoa Giáo chủ Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ lát, Đại hạnh Phồ Hiền Bồ tát, Kỳ viên hội thượng Phật, Bồ tát, nhứt bái.

Giới sư đứng một bên.

Thầy Tri sự bảo: Cầu giới tử lập ban (xoay về Phật).

Tiếp xướng:

- Nhứt tâm đảnh lễ Thập phương pháp giới thường trụ Phật, nhứt bái.

- Nhứt tâm đảnh lễ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, nhứt bái.

- Nhứt tâm đảnh lễ Đương hội đạo tràng nhứt thiết chư Phật, nhứt bái.

- Nhứt tâm đảnh lễ Đương hội đạo tràng chư Tôn Pháp, chư Bồ tát, chư Hiền Thánh Tăng, nhứt bái.

Hồ quỳ hiệp chưởng .

Thầy Tri sự thỉnh: Cung thỉnh chư giới sư thăng tòa.

V. GIỚI SƯ CHẮP TAY CỬ TÁN

Lư hương sạ nhiệt, pháp giới mông huân, chư Phật hải hội tất diêu văn, tùy xứ kiết tường vân, thành ý phương ân, chư Phật hiện toàn thân.

Nam mô Hương vân cái Bồ tát ma ha tát (3 lần).

VI. KỆ TÁN PHÁP

Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp,
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ,
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì,

Nguyện giải Như Lai Tỳ ni nghĩa.

Nam mô Khai bảo tạng Bồ tát ma ha tát (3 lần).

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần).

VII. GIỚI SƯ KHAI ĐẠO

Thiện nam (nữ: Thiện nữ)! Các vị lắng nghe cho kỹ:

Bể khổ không bờ, nếu không có thuyền từ Bát nhã thì không thể vượt lên bờ giải thoát được; muốn chứng Vô thượng Bồ đề, cần phải lãnh thọ giới pháp. Tất cả muôn công đức lành đều lấy giới đây làm nền tảng, chư Phật nhân giới đây mà thành bực Chánh giác. Đại thặng, Tiểu thặng cùng giữ giới pháp, tại gia xuất gia cùng thọ giới, chỉ vì người tại gia phần nhiều bị duyên trần ràng buộc xâm lấn, không thể suốt đời ghi nhớ, cho nên Đức Như Lai chế ra khiến một ngày một đêm thọ trì tám pháp trai giới, do công đức này tất vượt ba cõi, thẳng đến Bồ đề. Ví như ngọc Ma ni thể nó tuy nhỏ mà hơn tất cả ngọc báu khác, có thể cho chúng sanh các thứ đồ vui thích, giới này lại cũng như thế.

Tu nhân tốt tuy có một ngày một đêm mà phúc báo không ngần, cho nên được công đức vượt hơn cõi người cõi trời, đức sẽ bằng Phật. Có thiện lợi như thế, cho nên cần phải tôn trọng mà lãnh thọ.

Phần tôi có lời dặn bảo, các vị đều nói theo.

VIII. GIỚI SƯ BẢO, GIỚI TỬ NÓI THEO

Đệ tử chúng con tên là: ... một lòng phụng thỉnh Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, mười phương ba đời tất cả Phật, chư Tôn Pháp, chư Bồ tát, chư Hiền Thánh Tăng. Cúi xin Tam bảo dũ lòng từ bi, lai lâm chứng giám, con nhờ sức từ ngôi Tam bảo, cho nên được thọ giới “Bát quan trai", xin thương xót cho chúng con (3 lần thỉnh, 3 lần cúi đầu xá).

Giới sư nên bảo sám hối:

IX. GIỚI SƯ BẢO, GIỚI TỬ NÓI THEO

Đệ tử chúng con tên là:...

Chí tâm sám hối,

Về trước đã tạo các nghiệp ác,

Đều bởi vô thỉ tham, sân, si,

Từ thân, miệng, ý mà sanh ra,

Tất cả con nay xin sám hối.

Nam mô Thập phương tam thế, nhứt thiết thường trụ Tam bảo tác đại chứng minh.

(Như thế ba lần sám rồi xướng lạy).

Nhứt tâm đảnh lễ thập phương tam thế, nhứt thiết thường trụ Tam bảo tam bái.

Hồ quỳ hiệp chưởng.

Giới sư lại bảo rằng:

Thiện nam (nữ: Thiện nữ) các vị trước đã sám hối, thân khẩu ý đều được thanh tịnh. Vậy từ sớm mai (chiều) ngày nay cho đến sớm mai (chiều) ngày mai, một ngày một đêm tu giữ tám giới pháp cho thanh tịnh, tức là gây cái nhân hạnh xuất gia sẽ chứng quả giải thoát.

Các vị đã biết giới có lợi ích không lường như thế, nên phải phát khởi thiện tâm liền được thiện giới thanh tịnh.

Tôi bảo, các vị đều nói theo tôi.

Theo pháp thọ quy giới, thầy bảo, giới tử nói theo, mỗi mỗi phải hiểu rõ ràng, mới có thể lãnh thọ được, không được tự nói trước, cũng không được cùng giới sư đồng nói.

X. GIỚI SƯ BẢO, GIỚI TỬ NÓI THEO

Đệ tử chúng con tên là ...

Quy y Phật,

Quy y Pháp,

Quy y Tăng.

Một ngày một đêm tu hạnh Bát Quan Trai Giới thanh tịnh.

(Nói như thế ba lần, mỗi lần cúi đầu xá)

(Quy y rồi lại ba lần kết,

Giới sư bảo, giới tử nói theo)

Đệ tử chúng con tên là ...

Quy y Phật rồi,

Quy y Pháp rồi,

Quy y Tăng rồi.

Một ngày một đêm tu hạnh Bát Quan Trai Giới thanh tịnh rồi.

(Nói như thế ba lần, mỗi lần cúi đầu xá, rồi lại trao cho giới tướng).

XI. GIỚI SƯ TRAO CHO GIỚI TUỚNG

Thiện nam (nữ: Thiện nữ) từ trước đến đây đã trao Tam quy, Tam kiết cho các vị, giới thể được tròn đủ, nay trao giới tướng cho các vị để cho các vị lãnh thọ giữ gìn cẩn thận, chớ cho trái phạm. Các vị phải nghe cho kỹ mà nhận lãnh, nếu có thể giữ thì nên đáp rằng: “Dạ, giữ được”.

GIỚI THỨ NHẤT: Như chư Phật suốt đời không sát hại chúng sanh. Các vị một ngày một đêm không sát hại chúng sanh, có thể giữ được không?

Đáp rằng: “Dạ, giữ được”.

GIỚI THỨ HAI: Như chư Phật suốt đời không gian tham trộm cắp. Các vị một ngày một đêm không gian tham trộm cắp, có thể giữ được không?

Đáp rằng: “Dạ, giữ được”.

GIỚI THỨ BA: Như chư Phật suốt đời không dâm dục. Các vị một ngày một đêm không dâm dục, có thể giữ được không?

Đáp rằng: “Dạ, giữ được”.

GIỚI THỨ TƯ: Như chư Phật suốt đời không nói dối. Các vị một ngày một đêm không nói dối, có thể giữ được không?

Đáp rằng: “Dạ, giữ được”.

GIỚI THỨ NĂM: Như chư Phật suốt đời không uống rượu. Các vị một ngày một đêm không uống rượu, có thể giữ được không?

Đáp rằng: “Dạ, giữ được”.

GIỚI THỨ SÁU: Như chư Phật suốt đời không đeo tràng hoa thơm, không xoa ướp dầu thơm vào mình. Các vị một ngày một đêm không đeo tràng hoa thơm, không ướp dầu thơm vào mình, có thể giữ được không?

Đáp rằng: “Dạ, giữ được”.

GIỚI THỨ BẢY: Như chư Phật suốt đời không ngồi trên giường cao tốt đẹp, không làm trò nhạc ca múa và cố đi xem nghe. Các vị một ngày một đêm không ngồi trên giường cao tốt đẹp, không làm trò nhạc ca múa và cố đi xem nghe, có thể giữ được không?

Đáp rằng: “Dạ, giữ được”.

GIỚI THỨ TÁM: Như chư Phật suốt đời không ăn phi thời. Các vị một ngày một đêm không ăn phi thời có thể giữ được không?

Đáp rằng: “Dạ, giữ được”.

XII. GIỚI SƯ BẢO PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG

Thiện nam (nữ: Thiện nữ) từ trước đến đây đã trao giới Bát quan trai cho các vị xong, bây giờ các vị phải phát nguyện hồi hướng. Tôi bảo các vị nói theo:

Con nay nhờ công đức Bát quan trai này, khỏi đọa vào ác thú, bát nạn, biên địa, nguyện đem công đức này, nhiếp lấy tất cả chúng sanh, phàm có công đức gì, cũng đều ban cho người, để cho thành đạo Vô thượng chánh chơn, cũng khiến cho tương lai mình cùng các chúng sanh, đồng sanh về Tịnh độ.

XIII. BẢO GIỚI TỬ LỄ TẠ

Giới tử đứng dậy đảnh lễ. Thầy Tri sự xướng:

Nhứt tâm đảnh lễ Thập phương tam thế, nhứt thiết thường trụ Tam bảo tam bái (lạy xong xướng):

Giới tử thối ban.

XIV. GIỚI SƯ CÙNG ĐẠI CHÚNG CỬ HỒI HƯỚNG

Thọ giới công đức hạnh thù thắng

Bao nhiêu phước đức đều hồi hướng

Nguyện khắp pháp giới các chúng sinh

Sớm được vãng sinh cõi Phật Vô Lượng Quang

Nguyện tiêu ba chướng dứt phiền não

Nguyện được trí huệ hiểu chân thật

Nguyện khắp tội chướng đều tiêu trừ

Ðời đời thường hành Bồ Tát đạo

Nguyện sinh sang cõi Tây phương Tịnh độ

Chín phẩm hoa sen là cha mẹ

Hoa nở thấy Phật ngộ vô sinh

Bồ Tát bất thối làm bạn lành

Nguyện đem công đức nầy

Hướng về khắp tất cả

Ðệ tử và chúng sinh

Ðều trọn thành Phật đạo.

Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sinh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng. (1 lạy)

Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sinh, thấu rõ tạng Kinh, trí huệ như biển. (1 lạy)

Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lạy)

Tam tự quy y (xong).

Tri sự xướng:

Thỉnh giới sư hồi nghệ trượng đường.

XV. PHÉP XẢ BÁT QUAN TRAl GlỚl

Sau khi tu đủ 24 giờ đồng hồ, các giới tử thỉnh giới sư lên chánh điện ngồi một bên. Tất cả đồng lễ 1 lễ, cùng hồ quỳ, một vị giữa đại bạch:

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

Bạch Đại đức, một lòng nghĩ, chúng con pháp danh là ... (nhiều thì kể chừng ba tên ...) đẳng. Đã nguyện thọ Bát quan trai giới, giữ trọn một ngày một đêm, nay chúng con xin xả giới, cúi mong Đại đức chứng minh cho.

Đại đức bảo:

Quý hóa thay! Các Phật tử đã nguyện tu giữ Bát quan trai giới một ngày một đêm được thanh tịnh, công đức vô lượng. Vậy, xin khuyên các Phật tử, tháng sau phát nguyện tu thêm một ngày một đêm nữa để cho công đức được tăng trưởng (tùy cơ khuyến tấn).

Các giới tử cùng lễ một lễ. Đồng hướng về Phật tụng.

Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Ða Tâm Kinh.

Khi Quán Tự Tại Bồ-Tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều không và vượt qua hết thảy khổ ách.

Này Xá-lợi Tử! Sắc chẳng khác không; không chẳng khác sắc. Sắc tức là không; không tức là sắc. Thọ tưởng hành thức cũng đều như thế.

Này Xá-lợi Tử! Các pháp đều không tướng: không sanh không diệt, không dơ không sạch, không tăng không giảm. Cho nên trong không: không có sắc, không có thọ tưởng hành thức; không có mắt tai mũi lưỡi thân ý; không có sắc thanh hương vị xúc pháp; không có nhãn giới, cho đến không có ý thức giới; không có vô minh, cũng không có hết vô minh, cho đến không có già chết, cũng không có hết già chết. Không có khổ tập diệt đạo; không có trí tuệ và cũng không có chứng đắc.

Vì không có chỗ chứng đắc, nên Bồ-Tát y theo Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tâm không ngăn ngại. Do không ngăn ngại, nên không sợ hãi, xa hẳn điên đảo mộng tưởng, và đạt tới cứu cánh Niết-bàn.

Chư Phật ba đời đều y theo Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Phải biết Bát-nhã Ba-la-mật-đa là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú. Có thể diệt trừ hết thảy khổ, chân thật bất hư.

Cho nên chú Bát-nhã Ba-la-mật-đa đã tuyên nói. Chú thuyết như vầy:

Yết-đế yết-đế, ba-la-yết-đế, ba-la-tăng-yết-đế, bồ-đề tát-bà-ha. (3 lần)

XVI. HỒI HƯỚNG

Tụng Kinh công đức hạnh thù thắng

Bao nhiêu phước đức đều hồi hướng

Nguyện khắp pháp giới các chúng sinh

Sớm được vãng sinh cõi Phật Vô Lượng Quang

Nguyện tiêu ba chướng dứt phiền não

Nguyện được trí huệ hiểu chân thật

Nguyện khắp tội chướng đều tiêu trừ

Ðời đời thường hành Bồ Tát đạo

Nguyện sinh sang cõi Tây phương Tịnh độ

Chín phẩm hoa sen là cha mẹ

Hoa nở thấy Phật ngộ vô sinh

Bồ Tát bất thối làm bạn lành

Nguyện đem công đức nầy

Hướng về khắp tất cả

Ðệ tử và chúng sinh

Ðều trọn thành Phật đạo.

Tam quy y

Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sinh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng. (1 lạy)

Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sinh, thấu rõ tạng Kinh, trí huệ như biển. (1 lạy)

Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lạy)

Ra, xuống lễ Tổ ba lễ (xong).

Đạo Phật - Ý nghĩa của ăn chay trong Phật giáo

Cùng tìm hiểu về Kinh Phật, chu dai bi cũng như ý nghĩa của ăn chay trong Phật giáo

Ý nghĩa của ăn chay trong Phật giáo
Người ta gọi ăn chay, ăn tương, ăn lạt để chỉ cho những người theo Ðạo Phật Bắc Tông, không ăn thịt, cá. Ðó là ăn chay vì lý do tôn giáo, ngày nay cũng ăn chay vì lý do sức khỏe.

1. Vì sao người phật Tử cần phải ăn chay

Ðôi khi người ta gọi đạo Phật là đạo Từ Bi, người tu theo đạo Phật theo lời kinh Phật là để giải thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử, khổ đau, đem niềm vui lại để bớt khổ cho mọi người, yêu thương mọi loại thú cầm, cùng nhau chung sống trong hòa bình và an vui. Do đó đức Phật dạy Phật tử phải ăn chay để tránh quả báo xấu, để tăng trưởng lòng từ, để mọi người và thú cầm cũng cùng nhau chung sống trong hòa bình, an vui.

2. Nên ăn chay như thế nào?

Có nhiều cách ăn chay khác nhau, nhưng nói chung chỉ ăn ngũ cốc, rau, trái cây, không ăn thịt của thú cầm, cá, nói chung là không ăn động vật.

Năm thứ là hành, hẹ, tỏi, nén, hưng cừ gọi là ngũ vị tân, người ăn chay trường cũng không ăn vì chúng có chất kích thích dục vọng.

Người ăn chay có thể uống sữa tươi hay sữa hộp, có thể ăn Bơ hay Pho mát vì chúng làm từ sữa, có thể ăn hột gà công nghiệp (gà không có trống, tức là không có sự sống).

Ðạo Phật theo Nam Tông, tu sĩ ăn thịt cá theo Ngũ tịnh nhục:

- Thịt ăn không thấy người giết.

- Thịt ăn mà mình không nghe tiếng con vật kêu khi bị giết.

- Thịt ăn mà mình không nghi người ta giết cho mình ăn.

- Thịt con vật tự chết.

- Thịt con thú khác ăn còn dư.

Người ta chia ăn chay làm hai loại: Ăn chay trường và ăn chay kỳ.

- Ăn chay trường: Là ngày nào cũng ăn chay.

- Ăn chay kỳ: Có nhiều cách:

* Nhị trai: Mỗi tháng ăn 2 ngày là Mồng Một và ngày Rằm. Ngày xưa không có lịch để xem ngày tốt xấu, nên đặt ra cách ăn 2 ngày vào ngày trăng tròn (ngày Vọng: ngày Rằm) và ngày không trăng (ngày Sóc: mồng một).

* Tứ trai: Mỗi tháng ăn 4 ngày là Mồng Một, 14, Rằm, 30 (tháng thiếu 29).

* Lục trai: Mỗi tháng ăn 6 ngày là Mồng Một, 8, 14, Rằm, 23, 30 (tháng thiếu 29).

* Thập trai: Mỗi tháng ăn 10 ngày là Mồng Một, 8, 14, Rằm, 18, 23, 24, 28, 29, 30 (tháng thiếu 27, 28, 29).

* Nhất nguyệt trai: Ăn chay trọn tháng Giêng hay tháng Bảy.

* Tam nguyệt trai:Ăn chay trọn tháng Giêng, tháng Bảy và tháng Mười.

3. Những ngộ nhận về việc ăn chay

- Ngộ nhận thứ nhất: Ăn chay khó, nhiều người Phật tử muốn ăn chay, mỗi tháng 2 hay 4 ngày, nhưng đến ngày ăn chay thấy khó ăn quá, đến đêm đói bụng khó ngủ, trông chờ mau qua khỏi 12 giờ đêm để ăn mặn, vì bụng đói lại thèm ăn. Có nhiều nguyên nhân, một là ăn chay dễ tiêu cho nên mau đói, hai là người ta nghĩ chỉ ăn 1 hay 2 ngày nên nấu nướng thức ăn qua loa (thường chưa biết nấu món ăn chay), do đó người ăn không ngon miệng, cả hai nguyên nhân tạo cho sự ăn chay khó. Ðề nghị người biết nấu món ăn chay đừng giấu nghề hãy hướng dẫn, phổ biến cách nấu các món ăn ngon, nhờ đó người ta ăn được mình cũng có phước, quý vị nội trợ nên học hỏi cách nấu vài món chay cho ngon miệng, mỗi ngày ăn chay nên nấu vài món khác nhau, người ăn chay sẽ dễ ăn hơn.

- Ngộ nhận thứ hai: Ăn chay mất sức khỏe vì thiếu chất dinh dưỡng, ngộ nhận nầy phát xuất do ngững người ăn chay trường gây ra, nhiều người tu sĩ cũng như cư sĩ cho rằng tu là tiết dục, ăn uống giản dị cũng nhằm mục đích đó, chẳng hạn chỉ ăn cơm với muối xả, ăn cơm với muối mè, ăn cơm với muối tiêu, ăn cơm với muối đậu (đậu phộng), ăn cơm với tương hột, ăn cơm với chao, toàn là những thức ăn thiếu dinh dưỡng, đôi khi có thêm canh rau dền, rau muống, bò ngót, bắp cải luộc. Ăn chay rất đạm bạc như thế, lâu ngày đương nhiên thiếu chất dinh dưỡng, sanh ra bệnh tật, từ đó người khác cho rằng ăn chay mất sức khoẻ. Người ăn chay trường cần phải có quan niệm ăn chay là để tránh nghiệp sát sanh, vậy phải ăn cho đủ chất bổ dưỡng, thân thể có khỏe mạnh chúng ta mới dùng nó để làm phương tiện tu học, chúng ta không chìu cho thân thể nầy ăn sung, mặc sướng, ngủ kỷ nhưng không thể không nuôi dưỡng nó. Nếu chúng ta chịu khó nấu ăn với những món giàu chất dinh dưỡng như đậu hủ tươi hay chiên, tàu hủ ky, giá, các thứ đậu, rau muống, nấm rơm tươi, khô hay nắm đông cô, rau cải.

- Ngộ nhận thứ ba: Ăn chay trường khó, thật ra thì không khó, đừng bao giờ nghĩ rằng nấu tạm bợ, ăn qua loa như vậy làm cho người ăn chay trường khó ăn, nếu trong gia đình có hai ba người hoặc cả gia đình ăn chay thì dễ dàng hơn, khó không phải vì ăn mà khó vì sự nấu nướng thức ăn gây ra.

4. Những điều nên tránh của người ăn chay

- Không nên kiêu mạn: Vì tránh nghiệp xấu, vì lòng từ với chúng sinh nên mới ăn chay, đó cũng là cái duyên lành, không nên cho là ta hay ta giỏi ta tinh tấn hơn mọi người, coi rẻ người chưa ăn chay sẽ gây ác cảm với người khác và làm tổn đức của mình.

- Không nên ép xác: Không nên ăn quá kiêng khem, phải ăn cho đủ chất dinh dưỡng, nhất là nên ăn các thứ rau, đậu, giá, đậu hủ và mì căng. Khi đi máy bay, lúc mua vé hãy bảo cho họ biết mình ăn chay, họ sẽ lo thức ăn chay cho mình.

- Không nên giả mặn: Tránh làm những món ăn như nắn thành hình con chim, gà, vịt hay thịt bò, thịt heo... Làm như vậy chẳng khác nào gợi cho người ta nhớ món ăn mặn.

- Không nên gây khó khăn cho người khác: Ði đám tiệc hay đến nhà người khác, nếu người ta không biết trước để chuẩn bị món ăn chay, thì cứ ăn tạm với những thức ăn có thể ăn được như rau cải, dưa leo, nước tương. Không nên làm cho gia chủ thấy khó chịu vì không tiếp đãi được mình như ý muốn.

5. Lợi ích của việc ăn chay

Những người ăn chay vốn là những người đã tu, nhưng nhờ ăn chay tánh tình sẽ hiền lành đối với mọi người, mọi loài, được mọi người thương yêu và kính trọng. Nếu có nhiều người ăn chay tức nhiên sẽ có nhiều người ăn lành ở hiền, xã hội được tốt đẹp, thế giới được hòa bình, an vui.

Câu chuyện con nhện ở miếu Quan Âm

Cùng tìm hiểu về Kinh Phật, Chú Đại Bi và câu chuyện con nhện ở miếu Quan Âm

Câu chuyện con nhện ở miếu Quan Âm
Trước miếu Quan Âm mỗi ngày có vô số người tới thắp hương lễ lạy, tụng kinh Phật, khói hương nghi ngút. Có con nhện ở miếu Quan Âm chăng tơ trên xà ngang, mỗi ngày đều ngập trong khói hương và những lời cầu đảo, nhện dần có Phật tính. Trải nghìn năm tu luyện, nhện đã linh.

Một ngày, bỗng Phật dạo đến ngôi miếu nọ, thấy khói hương rất vượng, hài lòng lắm. Lúc rời miếu, ngài vô tình ngẩng đầu lên, nhìn thấy nhện trên xà.

Phật dừng lại, hỏi nhện: “Ta gặp ngươi hẳn là có duyên, ta hỏi ngươi một câu, xem ngươi tu luyện một nghìn năm nay có thật thông tuệ chăng. Được không?”

Nhện gặp được Phật rất mừng rỡ, vội vàng đồng ý. Phật hỏi: “Thế gian cái gì quý giá nhất?”

Nhện suy ngẫm, rồi đáp: “Thế gian quý nhất là những gì không có được và những gì đã mất đi!”. Phật gật đầu, đi khỏi.

Lại một nghìn năm nữa trôi qua, nhện vẫn tu luyện trên thanh xà trước miếu Quan Âm, được nghe lời tụng niệm Phật tính của nhện đã mạnh hơn.

Một ngày, Phật đến trước miếu, hỏi nhện: “Ngươi có nhớ câu hỏi một nghìn năm trước của ta không, giờ ngươi đã hiểu nó sâu sắc hơn chăng?”

Nhện nói: “Con cảm thấy trong nhân gian quý nhất vẫn là “không có được” và “đã mất đi” ạ!”

Phật bảo: “Ngươi cứ nghĩ nữa đi, ta sẽ lại tìm ngươi.”

Một nghìn năm nữa lại qua, có một hôm, nổi gió lớn, gió cuốn một hạt sương đọng lên lưới nhện. Nhện nhìn giọt sương, thấy nó long lanh trong suốt sáng lấp lánh, đẹp đẽ quá, nhện có ý yêu thích. Ngày này nhìn thấy giọt sương nhện cũng vui, nó thấy là ngày vui sướng nhất trong suốt ba nghìn năm qua. Bỗng dưng, gió lớn lại nổi, cuốn giọt sương đi. Nhện giây khắc thấy mất mát, thấy cô đơn, thấy đớn đau.

Lúc đó Phật tới, ngài hỏi: “Nhện, một nghìn năm qua, ngươi đã suy nghĩ thêm chưa: Thế gian này cái gì quý giá nhất?”

Nhện nghĩ tới giọt sương, đáp với Phật: “Thế gian này cái quý giá nhất chính là cái không có được và cái đã mất đi.”

Phật nói: “Tốt, nếu ngươi đã nhận thức như thế, ta cho ngươi một lần vào sống cõi người nhé!”

Và thế, nhện đầu thai vào một nhà quan lại, thành tiểu thư đài các, bố mẹ xem ngày tốt xấu và đặt tên cho nàng là Châu Nhi. Thoáng chốc Châu Nhi đã mười sáu, thành thiếu nữ xinh đẹp yểu điệu, duyên dáng. Hôm đó, tân Trạng Nguyên Cam Lộc đỗ đầu khoa, nhà vua quyết định mở tiệc mừng sau vườn ngự uyển.

Rất nhiều người đẹp tới yến tiệc, trong đó có Châu Nhi và Trường Phong công chúa. Trạng Nguyên trổ tài thi ca trên tiệc, nhiều tài nghệ khiến mọi thiếu nữ trong bữa tiệc đều phải lòng. Nhưng Châu Nhi không hề lo âu cũng không ghen, bởi nàng biết, chàng là mối nhân duyên mà Phật đã đưa tới dành cho nàng.

Qua vài ngày, tình cờ Châu Nhi theo mẹ lên miếu lễ Phật, cũng lúc Cam Lộc đưa mẹ tới miếu. Sau khi lễ Phật, hai vị mẫu thân ngồi nói chuyện. Châu Nhi và Cam Lộc thì tới hành lang tâm sự, Châu Nhi vui lắm, cuối cùng nàng đã có thể ở bên người nàng yêu, nhưng Cam Lộc dường như quá khách sáo.

Châu Nhi nói với Cam Lộc: “Chàng còn nhớ việc mười sáu năm trước, của con nhện trên xà miếu Quan Âm chăng?”

Cam Lộc kinh ngạc, hỏi: “Châu Nhi cô nương, cô thật xinh đẹp, ai cũng hâm mộ, nên trí tưởng tượng của cô cũng hơi quá nhiều chăng?”. Nói đoạn, chàng cùng mẹ chàng đi khỏi đó.

Châu Nhi về nhà, nghĩ, Phật đã an bài mối nhân duyên này, vì sao không để cho chàng nhớ ra chuyện cũ, Cam Lộc vì sao lại không hề có cảm tình với ta? Vài ngày sau, vua có chiếu ban cho Trạng Nguyên Cam Lộc sánh duyên cùng công chúa Trường Phong, Châu Nhi được sánh duyên với thái tử Chi Thụ. Tin như sấm động giữa trời quang, nàng không hiểu vì sao Phật tàn nhẫn với nàng thế.

Châu Nhi đau khổ, bỏ ăn uống, nằm khô nhắm mắt nghĩ ngợi đau đớn, vài ngày sau linh hồn nàng sắp thoát khỏi thân xác, sinh mệnh thoi thóp.

Thái tử Chi Thụ biết tin, vội vàng tới, phục xuống bên giường nói với nàng: “Hôm đó, trong những cô gái giữa bữa tiệc sau vườn thượng uyển, ta vừa gặp nàng đã thấy yêu thương, ta đã khốn khổ cầu xin phụ vương để cha ta cho phép cưới nàng. Nếu như nàng chết, thì ta còn sống làm chi.” Nói đoạn rút gươm tự sát.

Và giây khắc ấy Phật xuất hiện, Phật nói với linh hồn sắp lìa thể xác Châu Nhi: “Nhện, ngươi đã từng nghĩ ra, giọt sương (Cam Lộc) là do ai mang đến bên ngươi chăng? Là gió (Trường Phong) mang tới đấy, rồi gió lại mang nó đi. Cam Lộc thuộc về công chúa Trường Phong, anh ta chỉ là một khúc nhạc thêm ngắn ngủi vào sinh mệnh ngươi mà thôi.

Còn thái tử Chi Thụ chính là cái cây nhỏ trước cửa miếu Quan Âm đó, anh ta đã ngắm ngươi ba nghìn năm, yêu ngươi ba nghìn năm, nhưng ngươi chưa hề cúi xuống nhìn anh ta. Nhện, ta lại đến hỏi ngươi: thế gian này cái gì là quý giá nhất?”

Nhện nghe ra sự thật, chợt tỉnh ngộ, nàng nói với Phật:

“Thế gian này cái quý nhất không phải là thứ không có được và đã mất đi, mà là hạnh phúc hiện đang nắm giữ!”

Thứ Năm, 20 tháng 8, 2015

Trì niệm Chú Đại Bi thoát khỏi tai nạn chết đắm

Trì niệm Chú Đại Bi thoát khỏi tai nạn chết đắm 

Đời nhà Thanh, Ngô Doãn Thăng người ở Huy Châu, huyện Hấp, lúc tuổi trẻ thường qua lại buôn bán ở 2 châu Tô, Hàng. Một hôm, nhân có dịp đi qua Hồ Khâu, tình cờ gặp vị tăng đang hóa trai. Vị này nhìn chăm chú vào mặt ông một lúc lâu rồi nói: "Ngươi cũng có căn lành, nhưng tiếc vì đến lúc 29 tuổi bị nạn chết đắm".


Biết làm sao? Doãn Thăng sợ quá, cầu phương pháp giải thoát. Vị tăng trầm ngâm giây phút rồi bảo: "Từ đây về sau, ngươi nên giớI sát, phóng sanh, niệm Phật và trì Chú Đại Bi, may ra có thể khỏi được". Ngô Doãn Thăng y lời, về nhà trì chú, niệm Phật và thường lấy đó khuyên người.

Qua năm 29 tuổi, ông thuê thuyền từ Hàng Châu về quê quán, bạn đồng hành có 16 người. Thuyền ra đi được vài mươi dặm, bỗng gió to sóng lớn nổI lên, thế rất nguy cấp. Doãn Thăng chợt nhớ lời vị tăng nói khi trước, vội vã chắp tay tụng chú, niệm Phật. Giây phút thuyền chìm, tất cả người đi trong ấy đều bị sóng gió trôi dạt.

Trong lúc hôn mê, ông bỗng nghe tiếng nói: Ngô Doãn Thăng có công trì chú niệm Phật và khuyên ngườI, được khỏi tai nạn này! Mở mắt tỉnh ra, nhìn xung quanh, ông thấy mình đã được dân chài lướI vớt lên bờ, y phục ướt đẫm, mũ giày đều bị nước cuốn đi mất, duy nơi tay còn cầm chắc xâu chuỗi 18 hột thường dùng để tụng niệm hằng ngày. Hỏi ra, thì 16 ngườI kia đã bị nước cuốn đi không tìm thấy tung tích.

Từ đó về sau, ông tin tưởng công đức niệm phật, trì chú không thể nghĩ bàn, từng dùng hương viên đốt nơi cánh tay thành bốn chữ "cầu sanh Tây phương". Khi gặp ai ông cũng nói lý nhân quả, khuyên việc tu hành. Có được tiền, ông làm những công đức: Tạo tượng, cất chùa, phóng sanh, bố thí, cùng các việc phước thiện khác. Danh lành của ông càng lúc càng truyền xa, cho đến tại vùng Hàng Châu, tên Ngô Doãn Thăng đàn bà, trẻ con đều biết..

Ngày mùng một tháng năm, niên hiệu Đạo Quang thứ 9, khi lâm chung, ông giữ chánh niệm phân minh, tự nói: "Tôi thấy vô số Bồ Tát đi kinh hành ở trước mặt tôi" Nói xong, ngồi yên mà qua đời, năm đó ông được 66 tuổi.

Luật sư Thanh Biện và chuyện linh ứng Thần Chú Đại Bi

Luật sư Thanh Biện và chuyện linh ứng Thần Chú Đại Bi

Thanh Biện luật sư, người xứ Tây Thiên Trúc, sức học uyên bác, rất uyên thâm về vô tướng tông. Các ngoại đạo nghe danh, đến vấn nạn đều bị ngài dùng nghĩa không mà phá tất cả. Có một lần, luật sư gặp một nhà ngoại đạo nổi tiếng là giỏi, 2 bên tranh biện nhau hơn nửa ngày, ngoại đạo bị khuất lý mà vẫn cố chấp không chịu thua. Do đó, ngay tức khắc tự thân bỗng biến thành đá. Đến 6 tháng sau, nghe sấm nổ mới phục nguyên lại thành người như trước.


Về sau, ngài xem bộ luận về Hữu Tướng Tông của Hộ Pháp Đại Sư, đem nghĩa học của mình đối chiếu vẫn không phá hoại được, mới than rằng: 'Nếu không phải đức Di Lặc ra đời, thì ai giải quyết được mối nghi ngờ của ta?'. Nhân đó, ngài đến trước tượng Quán Tự Tại Bồ Tát, tụng Chú Đại Bi tùy tâm Đà Ra Ni 3 năm. Một đêm, đức Quán Thế Âm Bồ Tát, hiện sắc thân tốt đẹp đến hỏi: 'Ngươi tụng chú để mong cầu điều chi?' Luật sư đáp: 'Con nguyện lưu trụ thân đợi đến lúc Từ Thị Như Lai ra đờI để thưa hỏi về giáo nghĩa'. Bồ Tát nói: 'Thân người mong manh, cõi đời hư huyễn, sao không tu thắng hạnh cầu mong lên trời Đâu Suất, chẳng là mau gặp gỡ hơn ư?' Ngài thưa: 'Đức Di Lặc tuy hiện trụ nơi nội viện cung trời thứ tư, nhưng chưa thành Phật, vì thế con muốn đợi đến lúc ngài hiện thành chánh giác nơi cõi nhơn gian. Chí con đã quyết định, không thể lay chuyển'. Bồ tát bảo: 'Đã như thế, ngươi nên đi qua thành phía nam xứ Đại An Đạt La, thuộc về miền nam Thiên Trúc. Cách đó không xa, có một tòa sơn nham, chính là chỗ ở của thần Chấp Kim Cang. Sau khi đến nơi, ông nên đối trước sơn nham tụng chú Chấp Kim Cang Thần đà ra ni, sẽ được toại nguyện'.

Luật sư vâng lời, đi đến nơi, hành trì như thế. 3 năm sau, thần hiện ra và hỏi: 'Ông cầu nguyện điều chi?' Đáp: 'Tôi vưng lời đức Quán Thế Âm Bồ Tát mách bảo, đến đây trì tụng, nguyện lưu thân này sống mãi đợI đến khi Phật Di Lặc ra đời, xin tôn thần cho tôi được thành tựu như ý muốn'. Chấp Kim Cang thần bảo: 'Trong sơn nham này có cung điện của thần A Tu La, ông nên gia trì chú Đại Bi trong hạt cải trắng, rồi liệng vào thì cửa đá sẽ mở. Sau khi ấy, ông nên đi thẳng vào trong, sẽ có phương tiện để cho ông trụ thân lâu dài mà chờ đợi'. Luận sư hỏi: 'Trong cung động, cách biệt ngoài trần, khi Phật ra đời làm sao tôi được biết?' Thần nói: 'Chừng ấy, tôi sẽ cho ông hay'.

Ngài Thanh Biện lại y lời, tinh thành tụng chú trong hạt cải 3 năm, rồi liệng vào sơn nham, bỗng thấy vách đá mở ra, trong ấy hào quang chiếu sáng. Lúc bấy giờ, có rất đông đại chúng tề tựu đến xem, bàn bàn luận luận quên cả trở về. Luật sư tướng trạng an lành, buớc vào cửa đá, rồi day lại nói: 'Tôi nguyện cầu đã lâu, muốn trụ thân này chờ đức Từ Thị ra đời, nhờ sức thánh linh, bổn nguyện từ đây đã toại, vậy đại chúng nên theo tôi, để được ngày kia thấy Phật nghe pháp'. Trong chúng nghe nói sợ hãi, cho là hang loại độc long, đi vào chắc mất thân mạng. Luật sư đôi ba phen gọi bảo, chỉ có 6 ngườI chịu đi theo mà thôi. Ngài từ tạ rồi dẫn 6 ngườI thong thả đi vào trong, cửa đá liền khép lại.

Thầy Thích Kim Trược với chuyện linh ứng Thần Chú Đại Bi

Thầy Thích Kim Trược với chuyện linh ứng Thần Chú Đại Bi

Vào thời Trung Hoa Dân Quốc, ở Thai Châu có vị tăng hiệu là Thích Kim Trược, xuất gia nơi Chùa Diên Thọ hồi 8 tuổi, đến 20 tuổi, thọ đại giới tại chùa Quốc Thanh. Trên đường tu hành, vị thầy thế độ của Sư, chỉ khuyên tụng Chú Đại Bi và trì thánh hiệu Quán Thế Âm, y lời mỗi ngày sư tụng chú 48 biến. Sư thường vì người trị bịnh rất là hiệu nghiệm. Có nhiều kẻ cầu hỏi xin truyền cho phương pháp, Sư bảo: "Tôi chỉ trì Chú Đại Bi và niệm Quán Thế Âm mà thôi".


Trong năm Mậu Thìn (dân quốc), sư trụ ở một am nhỏ, ban đêm bị ăn cướp vào khảo tiền. Sau khi chúng xét khắp am, thấy không có chi, nổi giận, đâm ông một dao ở tay mặt và hai dao ở bên trán. Thương thế tuy nặng, nhưng sư không chết. Vết đâm cũng dần lành, để lại ba dấu thẹo lớn ăn sâu vào. Đây cũng là nghiệp trái nhiều kiếp, do công đức trì niệm, nên chuyển quả báo nặng thành nhẹ ở hiện đời.

Mùa hạ năm Kỷ Tị, sư đến Ninh Ba định an cư ở chùa A Dục Vương, nhưng vì số dự chúng đã đủ, mấy lần xin gia nhập, cũng không được hứa nhận. Chưa biết sẽ đi về đâu, Sư ngồi tĩnh tọa trọn nửa ngày, không có lời hờn trách, sắc oán hận. Vị giám tự tăng thấy thế, đưa sư đến tạm ở nơi Dưỡng tâm đường.

Ngày mãn hạ, vị tăng quản đường lại theo quy lệ, không cho ở. Sư bảo: "Chẳng bao lâu tôi sẽ sanh về Tây phương, xin từ bi cho tôi lưu lại trong một thời gian ngắn nữa". Chúng cho là lời nói phô, tỏ vẻ không tin. Qua ngày 21, trước giờ ngọ, sư đắp y lên chánh điện lễ Phật, lại đến trước vị tăng quản đường từ tạ, nói sau giờ Ngọ thời mình sẽ vãng sanh.


Lúc ấy, mọi người còn cho là lời nói dối. Đến giờ Ngọ, sư cùng đại chúng thọ trai, ăn đủ hai chén như mọi ngày không giảm. Lại bảo bạn đồng liêu rằng: "Theo quy lệ của nhà Chùa, người chết đưa thi hài vào núi sâu, tiền công khiêng đi phải bốn giác. Nay tôi không có vật chi, chỉ còn đôi dép, xin phụng tặng, nhờ thầy lo liệu giùm việc ấy".

Quả nhiên, sau thời Ngọ 1 giờ, sư ngồi ngoảnh mặt về phía Tây, an ổn mà hóa.

Huệ Tài pháp sư và chuyện linh ứng Thần Chú Đại Bi

Huệ Tài pháp sư và chuyện linh ứng Thần Chú Đại Bi


Vào đời nhà Tống, Huệ Tài pháp sư, người huyện Lạc Thanh, đất Vĩnh Gia, xuất gia hồi thuở còn bé, sau khi thọ đại giới, ngài đi tham học nhiều nơi mà không thông hiểu.

Vì tự hận mình nghiệp chướng sâu dày, pháp sư thường tụng Thần Chú Đại Bi cầu cho được trí huệ. Hành trì đã lâu, bỗng một đêm ngài nằm mộng thấy một vị phạm tăng cao vài trượng, cởi áo ca sa đắp lên mình. Sau khi thức dậy, pháp sư thấy tâm trí tỏ sáng, những kinh nghĩa đã nghe từ trước đến giờ, một lúc đều nhớ rõ ràng thông suốt.

Về sau, ngài tham yết Từ Vân Sám chủ, hằng theo phục dịch gần bên, chỗ giải ngộ càng thêm sâu sắc. Niên hiệu Trị Bình năm đầu, ngài trụ ở Pháp Huệ Bảo Các, được vua tứ hiệu Quảng Từ. Không bao lâu, pháp sư lại thối cư về ở bên tháp Lôi Phong, tinh tu về môn Tịnh Độ. Ngài thường đứng co một chân trì chú Đại Bi 108 biến, lấy đó làm thường khóa.


Mùa xuân niên hiệu Nguyên Phong năm đầu, ngài vì hàng đạo tục ngàn người, truyền giới ở Lôi Phong, khi vừa mới làm phép yết ma, nơi đỉnh tượng đức Quán Thế Âm bỗng phóng ánh sáng rực rỡ, đèn đuốc cùng ánh mặt trời thảy đều lu mờ. Ngài Thủ Nhứt Thiền Sư ở chùa Tịnh Từ vì đó làm bài Giới Quang Ký...

Ngày 21 tháng 5 niên hiệu Nguyên Phong thứ 6, pháp sư tắm gội thay y phục lên giảng tòa, đề bài kệ khen Phật, rồi bảo đại chúng: "Ta chắc chắn được sanh về Tịnh Độ", nói xong, ngồi yên lặng mà tịch, thọ được 86 tuổi.

Ấn Quang Đại Sư và chuyện linh ứng của thần Chú Đại Bi

Ấn Quang Đại Sư và chuyện linh ứng của thần Chú Đại Bi 

Sự linh ứng của thần chú đại bi
Ấn Quang Đại Sư, một vị cao tăng cận đại ở Trung Hoa, thuở sanh bình, hết sức tự tu và hoằng hóa pháp môn tịnh độ. Thường khóa của ngài ngoài thời niệm Phật chánh thức, lại kiêm trì Chú Đại Bi. Đại sư tu hành tinh tấn, sức từ bi cảm hóa đến hàng dị loại.

Năm Dân quốc thứ 19, ngài trụ ở chùa Báo Quốc, tại Thái Bình, trong tịnh thất, bỗng sanh ra vô số rệp, nhiều cho đến nỗi nó bò lên song cửa, trên mặt bàn. Có mấy vị đệ tử lo nghĩ đại sư già cả, không kham chịu sự quấy nhiễu, đôi ba phen xin vào trong thất dọn bắt. Ngài không cho và bảo : "Việc này chỉ trách mình kém đạo đức mà thôi. Thuở xưa một vị cao tăng cũng bị loài rệp phá rối, chịu không kham, quở bảo nó phải dời đi nơi khác, chúng liền đem nhau bò đi. Nay ta tu trì bất lực, nên không được sự cảm ứng như thế, lại còn nói gì ?"

Rồi đại sư vẫn an nhiên tiếp tục ở, không để ý đến. Ít lâu sau, loài rệp bỗng nhiên tuyệt tích, ngài cũng không nói cho ai biết. Lúc ấy, gần tiết Đoan Ngọ, Đức Sum pháp sư chợt nhớ đến việc trước hỏi thăm, ngài bảo : "đã đi hết từ lâu, không còn con nào nữa". Pháp sư cho là ngài lớn tuổi, mắt mờ yếu nên không thấy, quyết ý xin vào trong xem lại, quả nhiên chúng đã đi đâu hết sạch.

Đại sư thường gia trì Chú Đại Bi vào nước, gạo hoặc tro sạch để cứu những chứng bịnh mà các y sư đều bó tay, hiệu nghiệm lạ lùng. Một ngày, nơi Tàng Kinh Các của chùa phát hiện ra vô số mối trắng, đại sư ở trong thất, nghe nói, liền trì chú vào nước bảo rưới lên chú nguyện, loài mối cũng kéo nhau đi mất.

Những đệ tử ở xa bị bịnh dây dưa không hết, ngài khuyên nên trì chú vào gạo nấu ăn cho đến chừng nào hết bịnh mới thôi. Phương pháp đó gọi là Đại Bi Phạn. Cách nấu cơm, theo đại sư, nên khéo nấu gạo nước cho vừa chừng, đừng đổ nước nhiều rồi chắt ra, vì như thế đã hao củi lại mất chất bổ trong cơm, làm phí phạm của tiền mà tổn phước. Thuở còn nhỏ, ngài hay đau yếu, có người giỏi về tướng pháp cho rằng chỉ thọ đến 38 tuổi là cùng. Nhưng sau đại sư sống khoẻ mạnh đến 80 tuổi mới vãng sanh.

Vì sao Thần Chú Đại Bi không được phiên dịch

Vì sao Thần Chú Đại Bi không được phiên dịch

Kinh Hoa Nghiêm nói: "Tâm như người họa khéo, vẽ vời cảnh thế gian". Cảnh đời vui khổ đã do hành vi lành dữ phát sanh từ tâm niệm của loài người. Muốn làm dịu bớt thảm trạng ngày nay, mỗi người phải tự tu tỉnh, ăn năn, niệm Phật, niệm Quán Thế Âm hoặc thọ trì mật chú nữa. Xem kinh Quán Âm Đại Bi Tâm Đà Ra Ni, chúng ta thấy những công đức an vui, thoát khổ rất cần thiết đối với hiện cảnh ngày nay.

Vì sao Thần Chú Đại Bi không được phiên dịch
Theo trong Hiển Mật Viên Thông, người tu Chân ngôn về sắc trần cần phải rõ rệt, như quán nước phải ra nước, quán lửa phải ra lửa, chớ không thể khác được. Riêng về thinh trần thì dù tiếng tăm đọc tụng có trái với Phạn Âm đôi chút cũng không sao, miễn có lòng tin tưởng chí thành là được công hiệu. Vì thế, từ trước đến nay, hàng Phật tử ở Trung Hoa cho đến Việt Nam, khi đọc tụng chú, thật ra đều trái với chánh âm, song vẫn cảm được oai thần công đức không thể nghĩ bàn. Vậy người học Phật, muốn trì chú, đừng lấy điểm này làm hoài nghi, mà mất phần lợi ích.

Lại từ trước đến nay, chú ngữ không phiên dịch vì 5 duyên cớ:

1. Vì tâm niệm bí mật nên không phiên dịch

Như chúng sanh dùng tâm yên lặng, tin tưởng, thành kính mà niệm chú, tất sẽ khế hợp với chân tâm của Phật, Bồ Tát mà được cảm ứng. Nếu biết nghĩa lý thì dễ sanh niệm phân biệt, cho đoạn này nghĩa như vầy, đoạn kia nghĩa như thế, kết cuộc vẫn ở trong vòng vọng tưởng, làm sao thông cảm với Phật tâm ?

2. Vì nghĩa lý bí mật nên không phiên dịch

Trong một chữ chân ngôn có nhiều nghĩa, nếu dịch nghĩa này thì mất nghĩa kia. Không được toàn vẹn. Thí dụ, riêng một chữ A đã hàm súc những nghĩa như bất sanh, bất diệt, không, căn bản, chân thể, và nhiều nghĩa khác nữa.

3. Vì danh tự bí mật nên không phiên dịch

Nhiều chữ trong chân ngôn, hoặc chỉ cho danh hiệu Phật, Bồ Tát, Thiên, Long, Quỷ Thần, như chữ Hồng gồm 4 chữ Hạ, A, Ô, Ma hiệp thành, chỉ cho chủng tử của chư thiên. Hoặc có thứ ở phương này không có, như danh từ Diêm Phù thọ chẳng hạn.

4. Vì âm thanh bí mật nên không phiên dịch

Các chữ chân ngôn có khi diễn tả âm thanh của tiếng gió reo, nước chảy, tiếng loài chim kêu, đọc lên có sức linh động, nên để nguyên âm. Thí dụ: câu tô rô tô rô là chỉ cho tiếng lá cây ở cõi Phật rơi xuống. Hoặc như chữ Án, đọc lên có năng lực thầm kín, làm rung chuyển không gian. Hay như chữ Ta Bà Ha có sức truyền cảm như một sắc lịnh. Lại có nhiều danh từ nguyên chữ Phạn sẵn từ trước đến nay, vì thuận theo xưa, nên không dịch ra.

5. Vì sự sanh thiện bí mật nên không phiên dịch

Như danh từ bát nhã, người đọc lên sanh lòng tin tưởng, phát ra niệm lành, nếu dịch là trí huệ thì sanh lòng khinh thường, không quí trọng.

Trên đây là những nguyên nhân vì sao chú ngữ không dịch ra, chớ chẳng phải là không có ý nghĩa. Người học Phật phải nên xét nghĩ, chớ vội theo chỗ thấy hiểu cạn hẹp của mình, sanh lòng khinh mạn mà mang tội.

Thứ Ba, 7 tháng 7, 2015

Tu cái miệng chính là tu hơn nửa đời người

Nghiệp chính là hành động tạo tác nhiều lần và có chủ ý, của Thân, Miệng và Ý, là nguyên nhân đưa tới quả báo, luật nhân quả tuần hoàn không dứt, đưa con người luân hồi khắp sáu cõi.

Nếu gieo nghiệp thiện thì sẽ sanh ở cõi Trời, Người, Atula, còn nếu tạo nghiệp ác thì sẽ bị đọa vào Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh. Trong đó phần Miệng là gieo tạo nghiệp nhiều nhất. Nhưng đối với đạo Phật tu là chuyển được nghiệp.

Cố kinh vân: “phù sĩ xử thế, phủ tại khẩu trung, sở dĩ trạm thân, do kỳ ác ngôn”. nghĩa là, xét người ở đời, búa để trong miệng, sở dĩ giết người, do lời nói ác.

Tu cái miệng chính là tu hơn nửa đời người
Cổ nhân cũng có dạy: “Bệnh tùng khẩu nhập, hoạ tùng khẩu xuất” nghĩa là: bệnh từ cái miệng do ăn uống mà đem vào, họa cũng từ cái miệng do nói chuyện thị phi mà tạo ra. Phật dạy trong mười cái nghiệp của con người, thì trong đó cái miệng đã chiếm bốn gần một nửa:

1. Chuyện không nói có, chuyện có nói không
2. Nói lời hung ác
3. Nói lưởi đôi chiều
4. Nói lời thêu dệt.

Trong cuộc sống hằng ngày ngoài bốn điều trên, cái miệng còn tạo thêm nhiều nghiệp nữa như:

5. Ăn uống cầu kỳ,
6. Phê bình, khen chê,
7. Rêu rao lỗi của mọi người, (tứ chúng) toàn là những điều tổn phước và theo luật nhân quả tội phải đoạ vào địa ngục, cũng như làm mích lòng, gây mâu thuẩn, hận thù giết hại lẫn nhau mà thôi.

Do vậy kinh Phật cũng dạy, trong sinh hoạt hằng ngày có bốn hạng người chúng ta nên tránh:

1. Hay nói lỗi kẻ khác
2. Hay nói chuyện mê tín, tà kiến
3. Miệng tốt, bụng xấu (khẩu Phật, tâm xà)
4. Làm ít kể nhiều.

Từ cái miệng mà ta có thể biết tâm ý và đánh giá được người khác, để có cách ứng xữ thích nghi.

Của cải dù to lớn như núi, nhưng cái miệng ăn lâu ngày cũng hết. Phước đức dù cực khổ gieo tạo nhiều đời, nhưng do cái miệng tạo nghiệp, phê bình, chỉ trích, nói lời ác… thì trong giây phút cũng có thể tiêu tan. Làm ơn hay bị măc oán, cũng do cái miệng nầy hay kể công, mắng nhiếc, nói sỉ nhục người.

Thần khẩu nó hại xác phàm
Người nào nói quá họa làm khổ thân
Lỡ chân gượng được đỡ lên
Lỡ miệng gây họa phải đền trả thôi.

Cái miệng nầy rất tai hại, ăn uống thì cầu kỳ muốn nuốt vào những món ngon vật lạ cho khoái khẩu, vừa hao tốn tiền của, vừa đem bệnh vào thân, vì động thực vật bây giờ sản xuất chạy theo lợi nhuận nên xử dụng hóa chất rất nhiều, nếu không biết kiêng cữ thì bệnh nan y mang vào thân, để tự làm khổ mình và làm khổ bao người, phải lo chạy chữa, là chuyện đương nhiên.

Người xưa cũng có dạy:

Khẩu khai thần khí tán
Thiệt động thị phi sanh.

Tức là mở miệng nhiều lời sẽ hao tỗn thần khí, lưỡi động thường nói chuyện phải trái, hơn thua, đẹp xấu, khen chê…để rồi phải tranh đấu, mạ lị lẫn nhau khiến sanh ra lắm chuyện thương tâm. Đấy là chỉ nói sơ qua những điều tai hại thường xảy ra hằng ngày của cái miệng, còn lại suốt trong một đời người, do thoả thích cho cái miệng mà chúng ta đã tạo không biết bao tội lỗi.

Do vậy mà Tây phương cũng có dạy: Trước khi nói phải uống lưỡi bảy lần, là vậy.

Cũng có kệ rằng:

Trăm năm vật đổi sao dời. Một câu quý giá muôn đời còn ghi
Mở lời trước phải xét suy. Rằng ta cất tiếng ích chi chăng là.

Lại có thơ:

Lời nói đổi trắng thay đen
Thiên đàng, điạ ngục bon chen lối vào
Trực ngôn tâm chẳng lao xao
Giữ tâm thiền định biết bao an lành.

Cái miệng cũng có nhiều cái lợi: dùng để ăn uống tốt, nuôi dưỡng cơ thể, dùng để nói năng giao tiếp trong hằng ngày, tạo mối thâm tình, giao hảo hài hòa, thông hiểu lẫn nhau, dùng để thuyết giảng, tụng niệm, dạy học, truyền kiến thức và những điều lợi ích đến được nhiều người.

Đọc câu chuyện trong quốc văn giáo khoa thư sau đây sẽ thấy được sự lợi hại về cái miệng, lưỡi: “Một hôm ông phú hộ ra lệnh cho người làm giết heo và chọn phần quí nhất của con heo làm cho ông một món ăn. Người làm vâng lời và sau đó dâng cho ông một món ăn mà phần quí nhất là cái lưỡi heo. Ông phú hộ hỏi tại sao thì người làm trả lời rằng cái lưỡi là bộ phận quí nhất, vì nhờ cái lưỡi mà con người có thể diễn đạt những tình cảm chân thành, những ý tưởng cao siêu, ích nước lợi dân và có ích cho nhân loại.

Ít lâu sau, ông phú hộ lại ra lệnh cho người làm giết heo và chọn một bộ phận xấu xa nhất làm cho ông một món ăn. Người làm vâng lời và sau đó dâng cho ông phú hộ một dĩa đồ ăn mà bộ phận xấu xa nhất lại cũng là cái lưỡi heo.

Ông phú hộ hỏi tại sao, người làm bèn trả lời rằng vì cái lưỡi có thể nói lên những lời nói xấu xa nhất tàn ác nhất làm tan nát gia đình xã hội và có thể khuynh đảo nước nhà ngay cả làm hại cho nhân loại. Ông phú hộ vô cùng ngợi khen sự thông minh của người làm”.

Thật là cái lưỡi không xương nhiều đường lắc léo. Người xưa cũng có nói “nhứt ngôn khả dĩ hưng bang, nhứt ngôn khả dĩ tán bang” nghĩa là một lời nói có thể xây dựng nước nhà, mà cũng có thể làm tan nát nước nhà.

Lược sơ qua những điều lợi hại, thì chúng ta đã thầy cái miệng, lưỡi của người thế gian điều hại sẽ nhiều hơn điều lợi rồi, Tạo hóa sinh ra con người có hai lỗ tai, nhưng chỉ có một cái miệng, cho nên phải nghe nhiều hơn nói, mới đúng với tự nhiên, được thân người là khó, có đầy đủ lục căn và miệng lưỡi trọn vẹn là phước đức quá rồi, hãy nhân vốn phước báu nầy mà gieo trồng thêm phước đức ra nữa, thì mới là người khôn, bởi vậy phải lo Tu cái miệng là điều cần thiết nhất và xem như Tu hơn nửa đời người rồi.

Hoà Thượng Thích Thiện Hoà dạy:

Người khôn nói ít nghe nhiều
Lựa lời đối đáp, lựa điều hỏi han
Trước người hiểu rõ khôn ngoan
Nhường trên một bước rộng đường dể đi
Việc người chớ nói làm chi
Chuyện mình mình biết, vậy thì mới khôn.

Người đời cũng có câu:

Chim khôn hát tiếng rảnh rang
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe
Nghe rồi tỏ ngộ Bồ đề
Khuyên người niệm Phật đồng về Tây phương.

Thượng Toạ Chân Tín cũng có thơ:

Bớt đi lời nói thị phi
Bớt đi tội lỗi sân si đau buồn
Thêm câu niệm Phật nhiều hơn
Phước điền thêm lớn tâm hồn thêm vui.

Bồ Tát Giác Minh Diệu Hạnh có dạy: Ít nói một câu chuyện, niệm nhiều một câu Phật, đánh chết được vọng niệm, pháp thân ta hiện tiền.

Trong kinh Pháp Cú Phật có dạy: Dầu nói ngàn ngàn lời, Nhưng không gì lợi ích, tốt hơn một câu nghĩa, nghe xong được tịnh lạc.

Hay: Không phải vì nói nhiều, mới xứng danh bậc trí, an ổn không oán sợ, thật đáng gọi bậc trí. Không phải vì nói nhiều, là thọ trì chánh pháp, người nghe ít diệu pháp, nhưng trực nhận viên dung, chánh pháp không buông lung, là thọ trì Phật Pháp.

Phật cũng có dạy: Làm thinh như chánh pháp, nói năng như chánh pháp.

Là như vậy. Là Phật tử, một lời nói ra phải giúp cho nhiều người thông hiểu, an lạc, lợi ích thì chúng ta không tiếc lời, phước đức cũng rất vô biên, nhưng rất phải cẫn ngôn, cẫn ngữ khi phải nói ra những lời khiến người khác phải khổ đau, thiệt hại, thì chúng ta sẽ phải gặt hái những điều tương ưng.

Tạo Phước đức cả một đời, nhưng chỉ cần một lời ác khẩu nói ra là tiêu tan trong giây phút. Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. Nhất là chúng ta muốn tu hành được tinh tấn và thành tựu thì phải tránh những chuyện thị phi, vì thị phi mất rất nhiều thời gian một cách vô ích, mà lại gây tạo rất nhiều nghiệp khẩu, oan trái.

Xin luôn nhớ cho rằng:

Trăm năm bia đá thì mòn
Ngàn năm bia miệng vẫn con trơ trơ
Ai ơi! ít nói là vàng
Nói nhiều tội lỗi trái ngang cũng nhiều.

Chi bằng ít nói bao nhiêu
Khỏi điều phiền não, khỏi điều thị phi
Hằng ngày tam nghiệp vô vi
Không tranh nhân quả có gì đảo điên.

Không nghiệp chướng chẳng lụy phiền
Vô ưu, vô não nương thuyền tiêu dao.

Lợi hại như vậy đấy, nên mỗi chúng hãy mau lo tu cái miệng vậy. Trong cuộc sống hằng ngày chúng ta thường đối đãi với nhau, cái miệng phải luôn mĩm cười, nhạy lời xin lỗi và trọng lời cảm ơn. Phải tương kính, dùng ái ngữ, không tiếc lời khen, tán dương, ca tụng, truyền rao những người tốt, việc tốt, những điều hay, lẽ phải để nhân những điển hình tốt đẹp ra thêm làm tô thắm cuộc đời.

Nhưng rất dè dặt tiếng chê, nên ăn chay để bảo vệ môi trường và cứu tinh cầu, không nói dối, mà phải nói những lời chân thật, không dối gạt, ta sẽ nhận được nhiều uy thế, tiếng tăm. Không nói lời thêu dệt, mà nói những lời trung thực, sẽ được nhiều người kính mến. Không nói lời đâm thọc, mà nói lời hoà hợp sẽ được nhiều người ủng hộ. Không nói lời thô ác, mà nói toàn những lời hòa nhã, thương yêu, sẽ có cuộc sống cao sang.

Đấy là những pháp tu cho cái miệng, rất hay, rất bổ ích, chúng ta cần thực hiện theo, để gặt hái được nhiều phước đức, lúc đó cuộc đời, gia đình và xã hội, trong hiện tại được thanh bình, an đẹp và tương lai sẽ sanh vào nơi an lạc, thật hạnh phúc nào bằng.

Nghiệp miệng chuyên tạo điều lành
Sống thời an lạc, tái sanh cõi hiền
Viên Thành, những ngày tịnh dưỡng.

Thơ về nghiệp khẩu

Kinh dạy cái miệng tội lỗi vô cùng
Nghiệp khẩu có bốn, nói chung rất nhiều
Lời thời hung ác, lưỡi lại đôi chiều
Chuyện không nói có, có thời nói không.

Nhiều lời thêu dệt, lắm chuyện viễn vông
Đâm bì thóc nọ thọc bì gạo kia
Khiến cho bao kẻ chịu cảnh chia lià
Nát tan nhà cửa gia đình thảm thương.
Lại thêm rao lỗi tứ chúng bốn phương

Truớc mặt khen nịnh sau lưng chê cười
Thương thay người lại biến thành đười ươi
Để cho đánh mất tình người trong ta
Cái miệng ăn uống rất đỗi xa hoa.

Giết bao loài vật để mà nuôi thân
Nhậu nhẹt say khướt như kẻ ngu đần
Thân mình phá hoại bệnh tình phải mang
Ung thư đột quỵ bệnh gút rõ ràng.

Nhà hàng ăn uống cầu kỳ nhẫn tâm
Quan điểm hưởng thụ tạo mọi lỗi lầm
Cũng từ cái miệng ăn càng nói xiên
Hoạ tai lại đến lắm chuyện não phiền.

Lỡ lời một tiếng hận thù ngàn năm
Lòng ta trong sáng tợ ánh trăng rằm
Chiếu soi nhân thế tỏ đường quy y
Khiêm cung đối đãi tôn trọng lễ nghi.

Nhạy lời xin lỗi trọng lời cảm ơn
Nhân văn đẹp tuyệt còn có nào hơn
Tán dương ca tụng trọng người hơn ta
Miệng cười tươi đẹp thanh thoát như hoa
Thành người cao qúy trên đời tôn vinh.

Khẩu nghiệp không tốt nay biến thành xinh
Ăn sạch nói đẹp thanh bình hoan ca.