Thứ Hai, 24 tháng 8, 2015

Đạo Phật - Nghi thức thọ Bát Quan Trai Giới

Cùng tìm hiểu Kinh Phật, chu dai bi cũng như tìm hiểu về nghi thức thọ bát quan trai giới

NGHI THỨC THỌ CÓ GlỚI SƯ TRUYỀN

Ban đầu đến Chùa cầu xin thọ Bát quan trai giới, chỉ bạch qua và trình ngày rảnh việc đã định...

Khi giới sư đã hoan hỷ cho, ra trai đường sẽ lễ cầu bạch rõ.

Phật tử tại gia phát tâm thọ giới Bát quan trai phải đến chùa lễ cầu giới sư, trước nhờ thầy Tri sự hướng dẫn . Khi giới sư mỗi mỗi dặn bảo đủ rồi sẽ đảnh lễ cầu xin truyền giới.

Nghi thức thọ Bát Quan Trai Giới
I. THỈNH GIỚI SƯ RA TRAI ĐƯỜNG

Thầy Tri sự đánh khánh, bảo một giới tử hiểu biết ra đứng giữa đại bạch, còn bao nhiêu đứng hai bên.

BẠCH: Nam mô A Di Đà Phật.

Bạch Đại đức, chúng con có duyên sự đầu thành đảnh lễ xin tác bạch (lễ 1 lễ rồi quỳ bạch).

Nam mô A Di Đà Phật (2 lần).

Bạch Đại đức, chúng con tên là: ... vì gia duyên còn bận buộc, chưa xuất gia được, nay chúng con y theo lời Phật dạy, nguyện tập tu Bát quan trai giới, xin thành tâm đảnh lễ cần cầu Đại đức thùy từ lân mẫn truyền trao giới pháp cho chúng con được ân triêm công đức.

Giới sư có thể truyền cho, đáp rằng:

A Di Đà Phật. "Được! Như vậy tốt lắm!”

Muốn nói rộng thì: Các vị còn gia duyên bận buộc chưa thể xuất gia được, nay nguyện tu Bát quan trai giới, đến thành tâm lễ cầu thầy truyền trao trai giới, Đại đức Tăng rất hoan hỷ hứa khả. Vậy các vị lễ Tổ chứng minh cho.

Giới tử bạch: A Di Đà Phật, trên Đại đức Tăng đã từ bi hứa khả cho rồi, chúng con xin đầu thành đảnh lễ cúng dường (lễ 3 lễ).

II. THỈNH GIỚI SƯ TỀ NGHỆ TỒ ĐƯỜNG

Thầy Tri sự xướng lễ: Nhứt tâm đảnh lễ Tây thiên, Đông độ, Việt Nam lịch đại chư vị Tổ sư tam bái (lễ rồi đứng một bên).

III. THỈNH GIỚI TỬ TỰU BAN

Đến rồi xướng rằng: Nhứt tâm đảnh lễ Tây thiên, Đông độ, Việt Nam lịch đại chư vị Tồ sư tam bái.

IV. THỈNH GIỚI SƯ TỀ NGHỆ PHẬT TIỀN

Niệm hương cầu Phật, Bồ tát gia bị. Thầy Tri sự xướng:

- Nhứt tâm đảnh lễ: Nam mô Tận hư không biến pháp giới, quá hiện vị lai, thập phương chư Phật, tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng thường trụ Tam bảo, nhứt bái.

- Nhứt tâm đảnh lễ: Nam mô Ta bà Giáo chủ Điều ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Long hoa Giáo chủ Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ lát, Đại hạnh Phồ Hiền Bồ tát, Kỳ viên hội thượng Phật, Bồ tát, nhứt bái.

Giới sư đứng một bên.

Thầy Tri sự bảo: Cầu giới tử lập ban (xoay về Phật).

Tiếp xướng:

- Nhứt tâm đảnh lễ Thập phương pháp giới thường trụ Phật, nhứt bái.

- Nhứt tâm đảnh lễ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, nhứt bái.

- Nhứt tâm đảnh lễ Đương hội đạo tràng nhứt thiết chư Phật, nhứt bái.

- Nhứt tâm đảnh lễ Đương hội đạo tràng chư Tôn Pháp, chư Bồ tát, chư Hiền Thánh Tăng, nhứt bái.

Hồ quỳ hiệp chưởng .

Thầy Tri sự thỉnh: Cung thỉnh chư giới sư thăng tòa.

V. GIỚI SƯ CHẮP TAY CỬ TÁN

Lư hương sạ nhiệt, pháp giới mông huân, chư Phật hải hội tất diêu văn, tùy xứ kiết tường vân, thành ý phương ân, chư Phật hiện toàn thân.

Nam mô Hương vân cái Bồ tát ma ha tát (3 lần).

VI. KỆ TÁN PHÁP

Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp,
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ,
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì,

Nguyện giải Như Lai Tỳ ni nghĩa.

Nam mô Khai bảo tạng Bồ tát ma ha tát (3 lần).

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần).

VII. GIỚI SƯ KHAI ĐẠO

Thiện nam (nữ: Thiện nữ)! Các vị lắng nghe cho kỹ:

Bể khổ không bờ, nếu không có thuyền từ Bát nhã thì không thể vượt lên bờ giải thoát được; muốn chứng Vô thượng Bồ đề, cần phải lãnh thọ giới pháp. Tất cả muôn công đức lành đều lấy giới đây làm nền tảng, chư Phật nhân giới đây mà thành bực Chánh giác. Đại thặng, Tiểu thặng cùng giữ giới pháp, tại gia xuất gia cùng thọ giới, chỉ vì người tại gia phần nhiều bị duyên trần ràng buộc xâm lấn, không thể suốt đời ghi nhớ, cho nên Đức Như Lai chế ra khiến một ngày một đêm thọ trì tám pháp trai giới, do công đức này tất vượt ba cõi, thẳng đến Bồ đề. Ví như ngọc Ma ni thể nó tuy nhỏ mà hơn tất cả ngọc báu khác, có thể cho chúng sanh các thứ đồ vui thích, giới này lại cũng như thế.

Tu nhân tốt tuy có một ngày một đêm mà phúc báo không ngần, cho nên được công đức vượt hơn cõi người cõi trời, đức sẽ bằng Phật. Có thiện lợi như thế, cho nên cần phải tôn trọng mà lãnh thọ.

Phần tôi có lời dặn bảo, các vị đều nói theo.

VIII. GIỚI SƯ BẢO, GIỚI TỬ NÓI THEO

Đệ tử chúng con tên là: ... một lòng phụng thỉnh Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, mười phương ba đời tất cả Phật, chư Tôn Pháp, chư Bồ tát, chư Hiền Thánh Tăng. Cúi xin Tam bảo dũ lòng từ bi, lai lâm chứng giám, con nhờ sức từ ngôi Tam bảo, cho nên được thọ giới “Bát quan trai", xin thương xót cho chúng con (3 lần thỉnh, 3 lần cúi đầu xá).

Giới sư nên bảo sám hối:

IX. GIỚI SƯ BẢO, GIỚI TỬ NÓI THEO

Đệ tử chúng con tên là:...

Chí tâm sám hối,

Về trước đã tạo các nghiệp ác,

Đều bởi vô thỉ tham, sân, si,

Từ thân, miệng, ý mà sanh ra,

Tất cả con nay xin sám hối.

Nam mô Thập phương tam thế, nhứt thiết thường trụ Tam bảo tác đại chứng minh.

(Như thế ba lần sám rồi xướng lạy).

Nhứt tâm đảnh lễ thập phương tam thế, nhứt thiết thường trụ Tam bảo tam bái.

Hồ quỳ hiệp chưởng.

Giới sư lại bảo rằng:

Thiện nam (nữ: Thiện nữ) các vị trước đã sám hối, thân khẩu ý đều được thanh tịnh. Vậy từ sớm mai (chiều) ngày nay cho đến sớm mai (chiều) ngày mai, một ngày một đêm tu giữ tám giới pháp cho thanh tịnh, tức là gây cái nhân hạnh xuất gia sẽ chứng quả giải thoát.

Các vị đã biết giới có lợi ích không lường như thế, nên phải phát khởi thiện tâm liền được thiện giới thanh tịnh.

Tôi bảo, các vị đều nói theo tôi.

Theo pháp thọ quy giới, thầy bảo, giới tử nói theo, mỗi mỗi phải hiểu rõ ràng, mới có thể lãnh thọ được, không được tự nói trước, cũng không được cùng giới sư đồng nói.

X. GIỚI SƯ BẢO, GIỚI TỬ NÓI THEO

Đệ tử chúng con tên là ...

Quy y Phật,

Quy y Pháp,

Quy y Tăng.

Một ngày một đêm tu hạnh Bát Quan Trai Giới thanh tịnh.

(Nói như thế ba lần, mỗi lần cúi đầu xá)

(Quy y rồi lại ba lần kết,

Giới sư bảo, giới tử nói theo)

Đệ tử chúng con tên là ...

Quy y Phật rồi,

Quy y Pháp rồi,

Quy y Tăng rồi.

Một ngày một đêm tu hạnh Bát Quan Trai Giới thanh tịnh rồi.

(Nói như thế ba lần, mỗi lần cúi đầu xá, rồi lại trao cho giới tướng).

XI. GIỚI SƯ TRAO CHO GIỚI TUỚNG

Thiện nam (nữ: Thiện nữ) từ trước đến đây đã trao Tam quy, Tam kiết cho các vị, giới thể được tròn đủ, nay trao giới tướng cho các vị để cho các vị lãnh thọ giữ gìn cẩn thận, chớ cho trái phạm. Các vị phải nghe cho kỹ mà nhận lãnh, nếu có thể giữ thì nên đáp rằng: “Dạ, giữ được”.

GIỚI THỨ NHẤT: Như chư Phật suốt đời không sát hại chúng sanh. Các vị một ngày một đêm không sát hại chúng sanh, có thể giữ được không?

Đáp rằng: “Dạ, giữ được”.

GIỚI THỨ HAI: Như chư Phật suốt đời không gian tham trộm cắp. Các vị một ngày một đêm không gian tham trộm cắp, có thể giữ được không?

Đáp rằng: “Dạ, giữ được”.

GIỚI THỨ BA: Như chư Phật suốt đời không dâm dục. Các vị một ngày một đêm không dâm dục, có thể giữ được không?

Đáp rằng: “Dạ, giữ được”.

GIỚI THỨ TƯ: Như chư Phật suốt đời không nói dối. Các vị một ngày một đêm không nói dối, có thể giữ được không?

Đáp rằng: “Dạ, giữ được”.

GIỚI THỨ NĂM: Như chư Phật suốt đời không uống rượu. Các vị một ngày một đêm không uống rượu, có thể giữ được không?

Đáp rằng: “Dạ, giữ được”.

GIỚI THỨ SÁU: Như chư Phật suốt đời không đeo tràng hoa thơm, không xoa ướp dầu thơm vào mình. Các vị một ngày một đêm không đeo tràng hoa thơm, không ướp dầu thơm vào mình, có thể giữ được không?

Đáp rằng: “Dạ, giữ được”.

GIỚI THỨ BẢY: Như chư Phật suốt đời không ngồi trên giường cao tốt đẹp, không làm trò nhạc ca múa và cố đi xem nghe. Các vị một ngày một đêm không ngồi trên giường cao tốt đẹp, không làm trò nhạc ca múa và cố đi xem nghe, có thể giữ được không?

Đáp rằng: “Dạ, giữ được”.

GIỚI THỨ TÁM: Như chư Phật suốt đời không ăn phi thời. Các vị một ngày một đêm không ăn phi thời có thể giữ được không?

Đáp rằng: “Dạ, giữ được”.

XII. GIỚI SƯ BẢO PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG

Thiện nam (nữ: Thiện nữ) từ trước đến đây đã trao giới Bát quan trai cho các vị xong, bây giờ các vị phải phát nguyện hồi hướng. Tôi bảo các vị nói theo:

Con nay nhờ công đức Bát quan trai này, khỏi đọa vào ác thú, bát nạn, biên địa, nguyện đem công đức này, nhiếp lấy tất cả chúng sanh, phàm có công đức gì, cũng đều ban cho người, để cho thành đạo Vô thượng chánh chơn, cũng khiến cho tương lai mình cùng các chúng sanh, đồng sanh về Tịnh độ.

XIII. BẢO GIỚI TỬ LỄ TẠ

Giới tử đứng dậy đảnh lễ. Thầy Tri sự xướng:

Nhứt tâm đảnh lễ Thập phương tam thế, nhứt thiết thường trụ Tam bảo tam bái (lạy xong xướng):

Giới tử thối ban.

XIV. GIỚI SƯ CÙNG ĐẠI CHÚNG CỬ HỒI HƯỚNG

Thọ giới công đức hạnh thù thắng

Bao nhiêu phước đức đều hồi hướng

Nguyện khắp pháp giới các chúng sinh

Sớm được vãng sinh cõi Phật Vô Lượng Quang

Nguyện tiêu ba chướng dứt phiền não

Nguyện được trí huệ hiểu chân thật

Nguyện khắp tội chướng đều tiêu trừ

Ðời đời thường hành Bồ Tát đạo

Nguyện sinh sang cõi Tây phương Tịnh độ

Chín phẩm hoa sen là cha mẹ

Hoa nở thấy Phật ngộ vô sinh

Bồ Tát bất thối làm bạn lành

Nguyện đem công đức nầy

Hướng về khắp tất cả

Ðệ tử và chúng sinh

Ðều trọn thành Phật đạo.

Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sinh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng. (1 lạy)

Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sinh, thấu rõ tạng Kinh, trí huệ như biển. (1 lạy)

Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lạy)

Tam tự quy y (xong).

Tri sự xướng:

Thỉnh giới sư hồi nghệ trượng đường.

XV. PHÉP XẢ BÁT QUAN TRAl GlỚl

Sau khi tu đủ 24 giờ đồng hồ, các giới tử thỉnh giới sư lên chánh điện ngồi một bên. Tất cả đồng lễ 1 lễ, cùng hồ quỳ, một vị giữa đại bạch:

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

Bạch Đại đức, một lòng nghĩ, chúng con pháp danh là ... (nhiều thì kể chừng ba tên ...) đẳng. Đã nguyện thọ Bát quan trai giới, giữ trọn một ngày một đêm, nay chúng con xin xả giới, cúi mong Đại đức chứng minh cho.

Đại đức bảo:

Quý hóa thay! Các Phật tử đã nguyện tu giữ Bát quan trai giới một ngày một đêm được thanh tịnh, công đức vô lượng. Vậy, xin khuyên các Phật tử, tháng sau phát nguyện tu thêm một ngày một đêm nữa để cho công đức được tăng trưởng (tùy cơ khuyến tấn).

Các giới tử cùng lễ một lễ. Đồng hướng về Phật tụng.

Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Ða Tâm Kinh.

Khi Quán Tự Tại Bồ-Tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều không và vượt qua hết thảy khổ ách.

Này Xá-lợi Tử! Sắc chẳng khác không; không chẳng khác sắc. Sắc tức là không; không tức là sắc. Thọ tưởng hành thức cũng đều như thế.

Này Xá-lợi Tử! Các pháp đều không tướng: không sanh không diệt, không dơ không sạch, không tăng không giảm. Cho nên trong không: không có sắc, không có thọ tưởng hành thức; không có mắt tai mũi lưỡi thân ý; không có sắc thanh hương vị xúc pháp; không có nhãn giới, cho đến không có ý thức giới; không có vô minh, cũng không có hết vô minh, cho đến không có già chết, cũng không có hết già chết. Không có khổ tập diệt đạo; không có trí tuệ và cũng không có chứng đắc.

Vì không có chỗ chứng đắc, nên Bồ-Tát y theo Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tâm không ngăn ngại. Do không ngăn ngại, nên không sợ hãi, xa hẳn điên đảo mộng tưởng, và đạt tới cứu cánh Niết-bàn.

Chư Phật ba đời đều y theo Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Phải biết Bát-nhã Ba-la-mật-đa là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú. Có thể diệt trừ hết thảy khổ, chân thật bất hư.

Cho nên chú Bát-nhã Ba-la-mật-đa đã tuyên nói. Chú thuyết như vầy:

Yết-đế yết-đế, ba-la-yết-đế, ba-la-tăng-yết-đế, bồ-đề tát-bà-ha. (3 lần)

XVI. HỒI HƯỚNG

Tụng Kinh công đức hạnh thù thắng

Bao nhiêu phước đức đều hồi hướng

Nguyện khắp pháp giới các chúng sinh

Sớm được vãng sinh cõi Phật Vô Lượng Quang

Nguyện tiêu ba chướng dứt phiền não

Nguyện được trí huệ hiểu chân thật

Nguyện khắp tội chướng đều tiêu trừ

Ðời đời thường hành Bồ Tát đạo

Nguyện sinh sang cõi Tây phương Tịnh độ

Chín phẩm hoa sen là cha mẹ

Hoa nở thấy Phật ngộ vô sinh

Bồ Tát bất thối làm bạn lành

Nguyện đem công đức nầy

Hướng về khắp tất cả

Ðệ tử và chúng sinh

Ðều trọn thành Phật đạo.

Tam quy y

Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sinh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng. (1 lạy)

Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sinh, thấu rõ tạng Kinh, trí huệ như biển. (1 lạy)

Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lạy)

Ra, xuống lễ Tổ ba lễ (xong).

Đạo Phật - Ý nghĩa của ăn chay trong Phật giáo

Cùng tìm hiểu về Kinh Phật, chu dai bi cũng như ý nghĩa của ăn chay trong Phật giáo

Ý nghĩa của ăn chay trong Phật giáo
Người ta gọi ăn chay, ăn tương, ăn lạt để chỉ cho những người theo Ðạo Phật Bắc Tông, không ăn thịt, cá. Ðó là ăn chay vì lý do tôn giáo, ngày nay cũng ăn chay vì lý do sức khỏe.

1. Vì sao người phật Tử cần phải ăn chay

Ðôi khi người ta gọi đạo Phật là đạo Từ Bi, người tu theo đạo Phật theo lời kinh Phật là để giải thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử, khổ đau, đem niềm vui lại để bớt khổ cho mọi người, yêu thương mọi loại thú cầm, cùng nhau chung sống trong hòa bình và an vui. Do đó đức Phật dạy Phật tử phải ăn chay để tránh quả báo xấu, để tăng trưởng lòng từ, để mọi người và thú cầm cũng cùng nhau chung sống trong hòa bình, an vui.

2. Nên ăn chay như thế nào?

Có nhiều cách ăn chay khác nhau, nhưng nói chung chỉ ăn ngũ cốc, rau, trái cây, không ăn thịt của thú cầm, cá, nói chung là không ăn động vật.

Năm thứ là hành, hẹ, tỏi, nén, hưng cừ gọi là ngũ vị tân, người ăn chay trường cũng không ăn vì chúng có chất kích thích dục vọng.

Người ăn chay có thể uống sữa tươi hay sữa hộp, có thể ăn Bơ hay Pho mát vì chúng làm từ sữa, có thể ăn hột gà công nghiệp (gà không có trống, tức là không có sự sống).

Ðạo Phật theo Nam Tông, tu sĩ ăn thịt cá theo Ngũ tịnh nhục:

- Thịt ăn không thấy người giết.

- Thịt ăn mà mình không nghe tiếng con vật kêu khi bị giết.

- Thịt ăn mà mình không nghi người ta giết cho mình ăn.

- Thịt con vật tự chết.

- Thịt con thú khác ăn còn dư.

Người ta chia ăn chay làm hai loại: Ăn chay trường và ăn chay kỳ.

- Ăn chay trường: Là ngày nào cũng ăn chay.

- Ăn chay kỳ: Có nhiều cách:

* Nhị trai: Mỗi tháng ăn 2 ngày là Mồng Một và ngày Rằm. Ngày xưa không có lịch để xem ngày tốt xấu, nên đặt ra cách ăn 2 ngày vào ngày trăng tròn (ngày Vọng: ngày Rằm) và ngày không trăng (ngày Sóc: mồng một).

* Tứ trai: Mỗi tháng ăn 4 ngày là Mồng Một, 14, Rằm, 30 (tháng thiếu 29).

* Lục trai: Mỗi tháng ăn 6 ngày là Mồng Một, 8, 14, Rằm, 23, 30 (tháng thiếu 29).

* Thập trai: Mỗi tháng ăn 10 ngày là Mồng Một, 8, 14, Rằm, 18, 23, 24, 28, 29, 30 (tháng thiếu 27, 28, 29).

* Nhất nguyệt trai: Ăn chay trọn tháng Giêng hay tháng Bảy.

* Tam nguyệt trai:Ăn chay trọn tháng Giêng, tháng Bảy và tháng Mười.

3. Những ngộ nhận về việc ăn chay

- Ngộ nhận thứ nhất: Ăn chay khó, nhiều người Phật tử muốn ăn chay, mỗi tháng 2 hay 4 ngày, nhưng đến ngày ăn chay thấy khó ăn quá, đến đêm đói bụng khó ngủ, trông chờ mau qua khỏi 12 giờ đêm để ăn mặn, vì bụng đói lại thèm ăn. Có nhiều nguyên nhân, một là ăn chay dễ tiêu cho nên mau đói, hai là người ta nghĩ chỉ ăn 1 hay 2 ngày nên nấu nướng thức ăn qua loa (thường chưa biết nấu món ăn chay), do đó người ăn không ngon miệng, cả hai nguyên nhân tạo cho sự ăn chay khó. Ðề nghị người biết nấu món ăn chay đừng giấu nghề hãy hướng dẫn, phổ biến cách nấu các món ăn ngon, nhờ đó người ta ăn được mình cũng có phước, quý vị nội trợ nên học hỏi cách nấu vài món chay cho ngon miệng, mỗi ngày ăn chay nên nấu vài món khác nhau, người ăn chay sẽ dễ ăn hơn.

- Ngộ nhận thứ hai: Ăn chay mất sức khỏe vì thiếu chất dinh dưỡng, ngộ nhận nầy phát xuất do ngững người ăn chay trường gây ra, nhiều người tu sĩ cũng như cư sĩ cho rằng tu là tiết dục, ăn uống giản dị cũng nhằm mục đích đó, chẳng hạn chỉ ăn cơm với muối xả, ăn cơm với muối mè, ăn cơm với muối tiêu, ăn cơm với muối đậu (đậu phộng), ăn cơm với tương hột, ăn cơm với chao, toàn là những thức ăn thiếu dinh dưỡng, đôi khi có thêm canh rau dền, rau muống, bò ngót, bắp cải luộc. Ăn chay rất đạm bạc như thế, lâu ngày đương nhiên thiếu chất dinh dưỡng, sanh ra bệnh tật, từ đó người khác cho rằng ăn chay mất sức khoẻ. Người ăn chay trường cần phải có quan niệm ăn chay là để tránh nghiệp sát sanh, vậy phải ăn cho đủ chất bổ dưỡng, thân thể có khỏe mạnh chúng ta mới dùng nó để làm phương tiện tu học, chúng ta không chìu cho thân thể nầy ăn sung, mặc sướng, ngủ kỷ nhưng không thể không nuôi dưỡng nó. Nếu chúng ta chịu khó nấu ăn với những món giàu chất dinh dưỡng như đậu hủ tươi hay chiên, tàu hủ ky, giá, các thứ đậu, rau muống, nấm rơm tươi, khô hay nắm đông cô, rau cải.

- Ngộ nhận thứ ba: Ăn chay trường khó, thật ra thì không khó, đừng bao giờ nghĩ rằng nấu tạm bợ, ăn qua loa như vậy làm cho người ăn chay trường khó ăn, nếu trong gia đình có hai ba người hoặc cả gia đình ăn chay thì dễ dàng hơn, khó không phải vì ăn mà khó vì sự nấu nướng thức ăn gây ra.

4. Những điều nên tránh của người ăn chay

- Không nên kiêu mạn: Vì tránh nghiệp xấu, vì lòng từ với chúng sinh nên mới ăn chay, đó cũng là cái duyên lành, không nên cho là ta hay ta giỏi ta tinh tấn hơn mọi người, coi rẻ người chưa ăn chay sẽ gây ác cảm với người khác và làm tổn đức của mình.

- Không nên ép xác: Không nên ăn quá kiêng khem, phải ăn cho đủ chất dinh dưỡng, nhất là nên ăn các thứ rau, đậu, giá, đậu hủ và mì căng. Khi đi máy bay, lúc mua vé hãy bảo cho họ biết mình ăn chay, họ sẽ lo thức ăn chay cho mình.

- Không nên giả mặn: Tránh làm những món ăn như nắn thành hình con chim, gà, vịt hay thịt bò, thịt heo... Làm như vậy chẳng khác nào gợi cho người ta nhớ món ăn mặn.

- Không nên gây khó khăn cho người khác: Ði đám tiệc hay đến nhà người khác, nếu người ta không biết trước để chuẩn bị món ăn chay, thì cứ ăn tạm với những thức ăn có thể ăn được như rau cải, dưa leo, nước tương. Không nên làm cho gia chủ thấy khó chịu vì không tiếp đãi được mình như ý muốn.

5. Lợi ích của việc ăn chay

Những người ăn chay vốn là những người đã tu, nhưng nhờ ăn chay tánh tình sẽ hiền lành đối với mọi người, mọi loài, được mọi người thương yêu và kính trọng. Nếu có nhiều người ăn chay tức nhiên sẽ có nhiều người ăn lành ở hiền, xã hội được tốt đẹp, thế giới được hòa bình, an vui.

Câu chuyện con nhện ở miếu Quan Âm

Cùng tìm hiểu về Kinh Phật, Chú Đại Bi và câu chuyện con nhện ở miếu Quan Âm

Câu chuyện con nhện ở miếu Quan Âm
Trước miếu Quan Âm mỗi ngày có vô số người tới thắp hương lễ lạy, tụng kinh Phật, khói hương nghi ngút. Có con nhện ở miếu Quan Âm chăng tơ trên xà ngang, mỗi ngày đều ngập trong khói hương và những lời cầu đảo, nhện dần có Phật tính. Trải nghìn năm tu luyện, nhện đã linh.

Một ngày, bỗng Phật dạo đến ngôi miếu nọ, thấy khói hương rất vượng, hài lòng lắm. Lúc rời miếu, ngài vô tình ngẩng đầu lên, nhìn thấy nhện trên xà.

Phật dừng lại, hỏi nhện: “Ta gặp ngươi hẳn là có duyên, ta hỏi ngươi một câu, xem ngươi tu luyện một nghìn năm nay có thật thông tuệ chăng. Được không?”

Nhện gặp được Phật rất mừng rỡ, vội vàng đồng ý. Phật hỏi: “Thế gian cái gì quý giá nhất?”

Nhện suy ngẫm, rồi đáp: “Thế gian quý nhất là những gì không có được và những gì đã mất đi!”. Phật gật đầu, đi khỏi.

Lại một nghìn năm nữa trôi qua, nhện vẫn tu luyện trên thanh xà trước miếu Quan Âm, được nghe lời tụng niệm Phật tính của nhện đã mạnh hơn.

Một ngày, Phật đến trước miếu, hỏi nhện: “Ngươi có nhớ câu hỏi một nghìn năm trước của ta không, giờ ngươi đã hiểu nó sâu sắc hơn chăng?”

Nhện nói: “Con cảm thấy trong nhân gian quý nhất vẫn là “không có được” và “đã mất đi” ạ!”

Phật bảo: “Ngươi cứ nghĩ nữa đi, ta sẽ lại tìm ngươi.”

Một nghìn năm nữa lại qua, có một hôm, nổi gió lớn, gió cuốn một hạt sương đọng lên lưới nhện. Nhện nhìn giọt sương, thấy nó long lanh trong suốt sáng lấp lánh, đẹp đẽ quá, nhện có ý yêu thích. Ngày này nhìn thấy giọt sương nhện cũng vui, nó thấy là ngày vui sướng nhất trong suốt ba nghìn năm qua. Bỗng dưng, gió lớn lại nổi, cuốn giọt sương đi. Nhện giây khắc thấy mất mát, thấy cô đơn, thấy đớn đau.

Lúc đó Phật tới, ngài hỏi: “Nhện, một nghìn năm qua, ngươi đã suy nghĩ thêm chưa: Thế gian này cái gì quý giá nhất?”

Nhện nghĩ tới giọt sương, đáp với Phật: “Thế gian này cái quý giá nhất chính là cái không có được và cái đã mất đi.”

Phật nói: “Tốt, nếu ngươi đã nhận thức như thế, ta cho ngươi một lần vào sống cõi người nhé!”

Và thế, nhện đầu thai vào một nhà quan lại, thành tiểu thư đài các, bố mẹ xem ngày tốt xấu và đặt tên cho nàng là Châu Nhi. Thoáng chốc Châu Nhi đã mười sáu, thành thiếu nữ xinh đẹp yểu điệu, duyên dáng. Hôm đó, tân Trạng Nguyên Cam Lộc đỗ đầu khoa, nhà vua quyết định mở tiệc mừng sau vườn ngự uyển.

Rất nhiều người đẹp tới yến tiệc, trong đó có Châu Nhi và Trường Phong công chúa. Trạng Nguyên trổ tài thi ca trên tiệc, nhiều tài nghệ khiến mọi thiếu nữ trong bữa tiệc đều phải lòng. Nhưng Châu Nhi không hề lo âu cũng không ghen, bởi nàng biết, chàng là mối nhân duyên mà Phật đã đưa tới dành cho nàng.

Qua vài ngày, tình cờ Châu Nhi theo mẹ lên miếu lễ Phật, cũng lúc Cam Lộc đưa mẹ tới miếu. Sau khi lễ Phật, hai vị mẫu thân ngồi nói chuyện. Châu Nhi và Cam Lộc thì tới hành lang tâm sự, Châu Nhi vui lắm, cuối cùng nàng đã có thể ở bên người nàng yêu, nhưng Cam Lộc dường như quá khách sáo.

Châu Nhi nói với Cam Lộc: “Chàng còn nhớ việc mười sáu năm trước, của con nhện trên xà miếu Quan Âm chăng?”

Cam Lộc kinh ngạc, hỏi: “Châu Nhi cô nương, cô thật xinh đẹp, ai cũng hâm mộ, nên trí tưởng tượng của cô cũng hơi quá nhiều chăng?”. Nói đoạn, chàng cùng mẹ chàng đi khỏi đó.

Châu Nhi về nhà, nghĩ, Phật đã an bài mối nhân duyên này, vì sao không để cho chàng nhớ ra chuyện cũ, Cam Lộc vì sao lại không hề có cảm tình với ta? Vài ngày sau, vua có chiếu ban cho Trạng Nguyên Cam Lộc sánh duyên cùng công chúa Trường Phong, Châu Nhi được sánh duyên với thái tử Chi Thụ. Tin như sấm động giữa trời quang, nàng không hiểu vì sao Phật tàn nhẫn với nàng thế.

Châu Nhi đau khổ, bỏ ăn uống, nằm khô nhắm mắt nghĩ ngợi đau đớn, vài ngày sau linh hồn nàng sắp thoát khỏi thân xác, sinh mệnh thoi thóp.

Thái tử Chi Thụ biết tin, vội vàng tới, phục xuống bên giường nói với nàng: “Hôm đó, trong những cô gái giữa bữa tiệc sau vườn thượng uyển, ta vừa gặp nàng đã thấy yêu thương, ta đã khốn khổ cầu xin phụ vương để cha ta cho phép cưới nàng. Nếu như nàng chết, thì ta còn sống làm chi.” Nói đoạn rút gươm tự sát.

Và giây khắc ấy Phật xuất hiện, Phật nói với linh hồn sắp lìa thể xác Châu Nhi: “Nhện, ngươi đã từng nghĩ ra, giọt sương (Cam Lộc) là do ai mang đến bên ngươi chăng? Là gió (Trường Phong) mang tới đấy, rồi gió lại mang nó đi. Cam Lộc thuộc về công chúa Trường Phong, anh ta chỉ là một khúc nhạc thêm ngắn ngủi vào sinh mệnh ngươi mà thôi.

Còn thái tử Chi Thụ chính là cái cây nhỏ trước cửa miếu Quan Âm đó, anh ta đã ngắm ngươi ba nghìn năm, yêu ngươi ba nghìn năm, nhưng ngươi chưa hề cúi xuống nhìn anh ta. Nhện, ta lại đến hỏi ngươi: thế gian này cái gì là quý giá nhất?”

Nhện nghe ra sự thật, chợt tỉnh ngộ, nàng nói với Phật:

“Thế gian này cái quý nhất không phải là thứ không có được và đã mất đi, mà là hạnh phúc hiện đang nắm giữ!”

Thứ Năm, 20 tháng 8, 2015

Trì niệm Chú Đại Bi thoát khỏi tai nạn chết đắm

Trì niệm Chú Đại Bi thoát khỏi tai nạn chết đắm 

Đời nhà Thanh, Ngô Doãn Thăng người ở Huy Châu, huyện Hấp, lúc tuổi trẻ thường qua lại buôn bán ở 2 châu Tô, Hàng. Một hôm, nhân có dịp đi qua Hồ Khâu, tình cờ gặp vị tăng đang hóa trai. Vị này nhìn chăm chú vào mặt ông một lúc lâu rồi nói: "Ngươi cũng có căn lành, nhưng tiếc vì đến lúc 29 tuổi bị nạn chết đắm".


Biết làm sao? Doãn Thăng sợ quá, cầu phương pháp giải thoát. Vị tăng trầm ngâm giây phút rồi bảo: "Từ đây về sau, ngươi nên giớI sát, phóng sanh, niệm Phật và trì Chú Đại Bi, may ra có thể khỏi được". Ngô Doãn Thăng y lời, về nhà trì chú, niệm Phật và thường lấy đó khuyên người.

Qua năm 29 tuổi, ông thuê thuyền từ Hàng Châu về quê quán, bạn đồng hành có 16 người. Thuyền ra đi được vài mươi dặm, bỗng gió to sóng lớn nổI lên, thế rất nguy cấp. Doãn Thăng chợt nhớ lời vị tăng nói khi trước, vội vã chắp tay tụng chú, niệm Phật. Giây phút thuyền chìm, tất cả người đi trong ấy đều bị sóng gió trôi dạt.

Trong lúc hôn mê, ông bỗng nghe tiếng nói: Ngô Doãn Thăng có công trì chú niệm Phật và khuyên ngườI, được khỏi tai nạn này! Mở mắt tỉnh ra, nhìn xung quanh, ông thấy mình đã được dân chài lướI vớt lên bờ, y phục ướt đẫm, mũ giày đều bị nước cuốn đi mất, duy nơi tay còn cầm chắc xâu chuỗi 18 hột thường dùng để tụng niệm hằng ngày. Hỏi ra, thì 16 ngườI kia đã bị nước cuốn đi không tìm thấy tung tích.

Từ đó về sau, ông tin tưởng công đức niệm phật, trì chú không thể nghĩ bàn, từng dùng hương viên đốt nơi cánh tay thành bốn chữ "cầu sanh Tây phương". Khi gặp ai ông cũng nói lý nhân quả, khuyên việc tu hành. Có được tiền, ông làm những công đức: Tạo tượng, cất chùa, phóng sanh, bố thí, cùng các việc phước thiện khác. Danh lành của ông càng lúc càng truyền xa, cho đến tại vùng Hàng Châu, tên Ngô Doãn Thăng đàn bà, trẻ con đều biết..

Ngày mùng một tháng năm, niên hiệu Đạo Quang thứ 9, khi lâm chung, ông giữ chánh niệm phân minh, tự nói: "Tôi thấy vô số Bồ Tát đi kinh hành ở trước mặt tôi" Nói xong, ngồi yên mà qua đời, năm đó ông được 66 tuổi.

Luật sư Thanh Biện và chuyện linh ứng Thần Chú Đại Bi

Luật sư Thanh Biện và chuyện linh ứng Thần Chú Đại Bi

Thanh Biện luật sư, người xứ Tây Thiên Trúc, sức học uyên bác, rất uyên thâm về vô tướng tông. Các ngoại đạo nghe danh, đến vấn nạn đều bị ngài dùng nghĩa không mà phá tất cả. Có một lần, luật sư gặp một nhà ngoại đạo nổi tiếng là giỏi, 2 bên tranh biện nhau hơn nửa ngày, ngoại đạo bị khuất lý mà vẫn cố chấp không chịu thua. Do đó, ngay tức khắc tự thân bỗng biến thành đá. Đến 6 tháng sau, nghe sấm nổ mới phục nguyên lại thành người như trước.


Về sau, ngài xem bộ luận về Hữu Tướng Tông của Hộ Pháp Đại Sư, đem nghĩa học của mình đối chiếu vẫn không phá hoại được, mới than rằng: 'Nếu không phải đức Di Lặc ra đời, thì ai giải quyết được mối nghi ngờ của ta?'. Nhân đó, ngài đến trước tượng Quán Tự Tại Bồ Tát, tụng Chú Đại Bi tùy tâm Đà Ra Ni 3 năm. Một đêm, đức Quán Thế Âm Bồ Tát, hiện sắc thân tốt đẹp đến hỏi: 'Ngươi tụng chú để mong cầu điều chi?' Luật sư đáp: 'Con nguyện lưu trụ thân đợi đến lúc Từ Thị Như Lai ra đờI để thưa hỏi về giáo nghĩa'. Bồ Tát nói: 'Thân người mong manh, cõi đời hư huyễn, sao không tu thắng hạnh cầu mong lên trời Đâu Suất, chẳng là mau gặp gỡ hơn ư?' Ngài thưa: 'Đức Di Lặc tuy hiện trụ nơi nội viện cung trời thứ tư, nhưng chưa thành Phật, vì thế con muốn đợi đến lúc ngài hiện thành chánh giác nơi cõi nhơn gian. Chí con đã quyết định, không thể lay chuyển'. Bồ tát bảo: 'Đã như thế, ngươi nên đi qua thành phía nam xứ Đại An Đạt La, thuộc về miền nam Thiên Trúc. Cách đó không xa, có một tòa sơn nham, chính là chỗ ở của thần Chấp Kim Cang. Sau khi đến nơi, ông nên đối trước sơn nham tụng chú Chấp Kim Cang Thần đà ra ni, sẽ được toại nguyện'.

Luật sư vâng lời, đi đến nơi, hành trì như thế. 3 năm sau, thần hiện ra và hỏi: 'Ông cầu nguyện điều chi?' Đáp: 'Tôi vưng lời đức Quán Thế Âm Bồ Tát mách bảo, đến đây trì tụng, nguyện lưu thân này sống mãi đợI đến khi Phật Di Lặc ra đời, xin tôn thần cho tôi được thành tựu như ý muốn'. Chấp Kim Cang thần bảo: 'Trong sơn nham này có cung điện của thần A Tu La, ông nên gia trì chú Đại Bi trong hạt cải trắng, rồi liệng vào thì cửa đá sẽ mở. Sau khi ấy, ông nên đi thẳng vào trong, sẽ có phương tiện để cho ông trụ thân lâu dài mà chờ đợi'. Luận sư hỏi: 'Trong cung động, cách biệt ngoài trần, khi Phật ra đời làm sao tôi được biết?' Thần nói: 'Chừng ấy, tôi sẽ cho ông hay'.

Ngài Thanh Biện lại y lời, tinh thành tụng chú trong hạt cải 3 năm, rồi liệng vào sơn nham, bỗng thấy vách đá mở ra, trong ấy hào quang chiếu sáng. Lúc bấy giờ, có rất đông đại chúng tề tựu đến xem, bàn bàn luận luận quên cả trở về. Luật sư tướng trạng an lành, buớc vào cửa đá, rồi day lại nói: 'Tôi nguyện cầu đã lâu, muốn trụ thân này chờ đức Từ Thị ra đời, nhờ sức thánh linh, bổn nguyện từ đây đã toại, vậy đại chúng nên theo tôi, để được ngày kia thấy Phật nghe pháp'. Trong chúng nghe nói sợ hãi, cho là hang loại độc long, đi vào chắc mất thân mạng. Luật sư đôi ba phen gọi bảo, chỉ có 6 ngườI chịu đi theo mà thôi. Ngài từ tạ rồi dẫn 6 ngườI thong thả đi vào trong, cửa đá liền khép lại.

Thầy Thích Kim Trược với chuyện linh ứng Thần Chú Đại Bi

Thầy Thích Kim Trược với chuyện linh ứng Thần Chú Đại Bi

Vào thời Trung Hoa Dân Quốc, ở Thai Châu có vị tăng hiệu là Thích Kim Trược, xuất gia nơi Chùa Diên Thọ hồi 8 tuổi, đến 20 tuổi, thọ đại giới tại chùa Quốc Thanh. Trên đường tu hành, vị thầy thế độ của Sư, chỉ khuyên tụng Chú Đại Bi và trì thánh hiệu Quán Thế Âm, y lời mỗi ngày sư tụng chú 48 biến. Sư thường vì người trị bịnh rất là hiệu nghiệm. Có nhiều kẻ cầu hỏi xin truyền cho phương pháp, Sư bảo: "Tôi chỉ trì Chú Đại Bi và niệm Quán Thế Âm mà thôi".


Trong năm Mậu Thìn (dân quốc), sư trụ ở một am nhỏ, ban đêm bị ăn cướp vào khảo tiền. Sau khi chúng xét khắp am, thấy không có chi, nổi giận, đâm ông một dao ở tay mặt và hai dao ở bên trán. Thương thế tuy nặng, nhưng sư không chết. Vết đâm cũng dần lành, để lại ba dấu thẹo lớn ăn sâu vào. Đây cũng là nghiệp trái nhiều kiếp, do công đức trì niệm, nên chuyển quả báo nặng thành nhẹ ở hiện đời.

Mùa hạ năm Kỷ Tị, sư đến Ninh Ba định an cư ở chùa A Dục Vương, nhưng vì số dự chúng đã đủ, mấy lần xin gia nhập, cũng không được hứa nhận. Chưa biết sẽ đi về đâu, Sư ngồi tĩnh tọa trọn nửa ngày, không có lời hờn trách, sắc oán hận. Vị giám tự tăng thấy thế, đưa sư đến tạm ở nơi Dưỡng tâm đường.

Ngày mãn hạ, vị tăng quản đường lại theo quy lệ, không cho ở. Sư bảo: "Chẳng bao lâu tôi sẽ sanh về Tây phương, xin từ bi cho tôi lưu lại trong một thời gian ngắn nữa". Chúng cho là lời nói phô, tỏ vẻ không tin. Qua ngày 21, trước giờ ngọ, sư đắp y lên chánh điện lễ Phật, lại đến trước vị tăng quản đường từ tạ, nói sau giờ Ngọ thời mình sẽ vãng sanh.


Lúc ấy, mọi người còn cho là lời nói dối. Đến giờ Ngọ, sư cùng đại chúng thọ trai, ăn đủ hai chén như mọi ngày không giảm. Lại bảo bạn đồng liêu rằng: "Theo quy lệ của nhà Chùa, người chết đưa thi hài vào núi sâu, tiền công khiêng đi phải bốn giác. Nay tôi không có vật chi, chỉ còn đôi dép, xin phụng tặng, nhờ thầy lo liệu giùm việc ấy".

Quả nhiên, sau thời Ngọ 1 giờ, sư ngồi ngoảnh mặt về phía Tây, an ổn mà hóa.

Huệ Tài pháp sư và chuyện linh ứng Thần Chú Đại Bi

Huệ Tài pháp sư và chuyện linh ứng Thần Chú Đại Bi


Vào đời nhà Tống, Huệ Tài pháp sư, người huyện Lạc Thanh, đất Vĩnh Gia, xuất gia hồi thuở còn bé, sau khi thọ đại giới, ngài đi tham học nhiều nơi mà không thông hiểu.

Vì tự hận mình nghiệp chướng sâu dày, pháp sư thường tụng Thần Chú Đại Bi cầu cho được trí huệ. Hành trì đã lâu, bỗng một đêm ngài nằm mộng thấy một vị phạm tăng cao vài trượng, cởi áo ca sa đắp lên mình. Sau khi thức dậy, pháp sư thấy tâm trí tỏ sáng, những kinh nghĩa đã nghe từ trước đến giờ, một lúc đều nhớ rõ ràng thông suốt.

Về sau, ngài tham yết Từ Vân Sám chủ, hằng theo phục dịch gần bên, chỗ giải ngộ càng thêm sâu sắc. Niên hiệu Trị Bình năm đầu, ngài trụ ở Pháp Huệ Bảo Các, được vua tứ hiệu Quảng Từ. Không bao lâu, pháp sư lại thối cư về ở bên tháp Lôi Phong, tinh tu về môn Tịnh Độ. Ngài thường đứng co một chân trì chú Đại Bi 108 biến, lấy đó làm thường khóa.


Mùa xuân niên hiệu Nguyên Phong năm đầu, ngài vì hàng đạo tục ngàn người, truyền giới ở Lôi Phong, khi vừa mới làm phép yết ma, nơi đỉnh tượng đức Quán Thế Âm bỗng phóng ánh sáng rực rỡ, đèn đuốc cùng ánh mặt trời thảy đều lu mờ. Ngài Thủ Nhứt Thiền Sư ở chùa Tịnh Từ vì đó làm bài Giới Quang Ký...

Ngày 21 tháng 5 niên hiệu Nguyên Phong thứ 6, pháp sư tắm gội thay y phục lên giảng tòa, đề bài kệ khen Phật, rồi bảo đại chúng: "Ta chắc chắn được sanh về Tịnh Độ", nói xong, ngồi yên lặng mà tịch, thọ được 86 tuổi.

Ấn Quang Đại Sư và chuyện linh ứng của thần Chú Đại Bi

Ấn Quang Đại Sư và chuyện linh ứng của thần Chú Đại Bi 

Sự linh ứng của thần chú đại bi
Ấn Quang Đại Sư, một vị cao tăng cận đại ở Trung Hoa, thuở sanh bình, hết sức tự tu và hoằng hóa pháp môn tịnh độ. Thường khóa của ngài ngoài thời niệm Phật chánh thức, lại kiêm trì Chú Đại Bi. Đại sư tu hành tinh tấn, sức từ bi cảm hóa đến hàng dị loại.

Năm Dân quốc thứ 19, ngài trụ ở chùa Báo Quốc, tại Thái Bình, trong tịnh thất, bỗng sanh ra vô số rệp, nhiều cho đến nỗi nó bò lên song cửa, trên mặt bàn. Có mấy vị đệ tử lo nghĩ đại sư già cả, không kham chịu sự quấy nhiễu, đôi ba phen xin vào trong thất dọn bắt. Ngài không cho và bảo : "Việc này chỉ trách mình kém đạo đức mà thôi. Thuở xưa một vị cao tăng cũng bị loài rệp phá rối, chịu không kham, quở bảo nó phải dời đi nơi khác, chúng liền đem nhau bò đi. Nay ta tu trì bất lực, nên không được sự cảm ứng như thế, lại còn nói gì ?"

Rồi đại sư vẫn an nhiên tiếp tục ở, không để ý đến. Ít lâu sau, loài rệp bỗng nhiên tuyệt tích, ngài cũng không nói cho ai biết. Lúc ấy, gần tiết Đoan Ngọ, Đức Sum pháp sư chợt nhớ đến việc trước hỏi thăm, ngài bảo : "đã đi hết từ lâu, không còn con nào nữa". Pháp sư cho là ngài lớn tuổi, mắt mờ yếu nên không thấy, quyết ý xin vào trong xem lại, quả nhiên chúng đã đi đâu hết sạch.

Đại sư thường gia trì Chú Đại Bi vào nước, gạo hoặc tro sạch để cứu những chứng bịnh mà các y sư đều bó tay, hiệu nghiệm lạ lùng. Một ngày, nơi Tàng Kinh Các của chùa phát hiện ra vô số mối trắng, đại sư ở trong thất, nghe nói, liền trì chú vào nước bảo rưới lên chú nguyện, loài mối cũng kéo nhau đi mất.

Những đệ tử ở xa bị bịnh dây dưa không hết, ngài khuyên nên trì chú vào gạo nấu ăn cho đến chừng nào hết bịnh mới thôi. Phương pháp đó gọi là Đại Bi Phạn. Cách nấu cơm, theo đại sư, nên khéo nấu gạo nước cho vừa chừng, đừng đổ nước nhiều rồi chắt ra, vì như thế đã hao củi lại mất chất bổ trong cơm, làm phí phạm của tiền mà tổn phước. Thuở còn nhỏ, ngài hay đau yếu, có người giỏi về tướng pháp cho rằng chỉ thọ đến 38 tuổi là cùng. Nhưng sau đại sư sống khoẻ mạnh đến 80 tuổi mới vãng sanh.

Vì sao Thần Chú Đại Bi không được phiên dịch

Vì sao Thần Chú Đại Bi không được phiên dịch

Kinh Hoa Nghiêm nói: "Tâm như người họa khéo, vẽ vời cảnh thế gian". Cảnh đời vui khổ đã do hành vi lành dữ phát sanh từ tâm niệm của loài người. Muốn làm dịu bớt thảm trạng ngày nay, mỗi người phải tự tu tỉnh, ăn năn, niệm Phật, niệm Quán Thế Âm hoặc thọ trì mật chú nữa. Xem kinh Quán Âm Đại Bi Tâm Đà Ra Ni, chúng ta thấy những công đức an vui, thoát khổ rất cần thiết đối với hiện cảnh ngày nay.

Vì sao Thần Chú Đại Bi không được phiên dịch
Theo trong Hiển Mật Viên Thông, người tu Chân ngôn về sắc trần cần phải rõ rệt, như quán nước phải ra nước, quán lửa phải ra lửa, chớ không thể khác được. Riêng về thinh trần thì dù tiếng tăm đọc tụng có trái với Phạn Âm đôi chút cũng không sao, miễn có lòng tin tưởng chí thành là được công hiệu. Vì thế, từ trước đến nay, hàng Phật tử ở Trung Hoa cho đến Việt Nam, khi đọc tụng chú, thật ra đều trái với chánh âm, song vẫn cảm được oai thần công đức không thể nghĩ bàn. Vậy người học Phật, muốn trì chú, đừng lấy điểm này làm hoài nghi, mà mất phần lợi ích.

Lại từ trước đến nay, chú ngữ không phiên dịch vì 5 duyên cớ:

1. Vì tâm niệm bí mật nên không phiên dịch

Như chúng sanh dùng tâm yên lặng, tin tưởng, thành kính mà niệm chú, tất sẽ khế hợp với chân tâm của Phật, Bồ Tát mà được cảm ứng. Nếu biết nghĩa lý thì dễ sanh niệm phân biệt, cho đoạn này nghĩa như vầy, đoạn kia nghĩa như thế, kết cuộc vẫn ở trong vòng vọng tưởng, làm sao thông cảm với Phật tâm ?

2. Vì nghĩa lý bí mật nên không phiên dịch

Trong một chữ chân ngôn có nhiều nghĩa, nếu dịch nghĩa này thì mất nghĩa kia. Không được toàn vẹn. Thí dụ, riêng một chữ A đã hàm súc những nghĩa như bất sanh, bất diệt, không, căn bản, chân thể, và nhiều nghĩa khác nữa.

3. Vì danh tự bí mật nên không phiên dịch

Nhiều chữ trong chân ngôn, hoặc chỉ cho danh hiệu Phật, Bồ Tát, Thiên, Long, Quỷ Thần, như chữ Hồng gồm 4 chữ Hạ, A, Ô, Ma hiệp thành, chỉ cho chủng tử của chư thiên. Hoặc có thứ ở phương này không có, như danh từ Diêm Phù thọ chẳng hạn.

4. Vì âm thanh bí mật nên không phiên dịch

Các chữ chân ngôn có khi diễn tả âm thanh của tiếng gió reo, nước chảy, tiếng loài chim kêu, đọc lên có sức linh động, nên để nguyên âm. Thí dụ: câu tô rô tô rô là chỉ cho tiếng lá cây ở cõi Phật rơi xuống. Hoặc như chữ Án, đọc lên có năng lực thầm kín, làm rung chuyển không gian. Hay như chữ Ta Bà Ha có sức truyền cảm như một sắc lịnh. Lại có nhiều danh từ nguyên chữ Phạn sẵn từ trước đến nay, vì thuận theo xưa, nên không dịch ra.

5. Vì sự sanh thiện bí mật nên không phiên dịch

Như danh từ bát nhã, người đọc lên sanh lòng tin tưởng, phát ra niệm lành, nếu dịch là trí huệ thì sanh lòng khinh thường, không quí trọng.

Trên đây là những nguyên nhân vì sao chú ngữ không dịch ra, chớ chẳng phải là không có ý nghĩa. Người học Phật phải nên xét nghĩ, chớ vội theo chỗ thấy hiểu cạn hẹp của mình, sanh lòng khinh mạn mà mang tội.